datetime.u_day
BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG TIẾNG NÓI LÊ LINH
Chính ngôn ngữ đã trực tiếp hay gián tiếp làm nên văn hoá dân tộc không chỉ với góc độ nó là yếu tố bảo lưu, là dấu tích của văn hoá qua các thời kỳ mà còn cả những đặc điểm loại hình mang phẩm chất riêng của một thực thể ngôn ngữ
Powered by Froala Editor
BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG TIẾNG NÓI
LÊ LINH
( Đã in trên Vn )
Có thể nói, hơn nửa thế kỷ qua, những vấn đền như cơ cấu ngữ pháp, hệ thống từ vựng, ngữ âm, ngữ nghĩa và phong cách tiếng Việt đã được nghiên cứu khá sâu trên nhiều phương diện. Tuy nhiên, việc tìm hiểu các đặc trưng ngôn ngữ liên quan đến bản sắc văn hoá của dân tộc Việt, nhất là trong giao tiếp thì hầu như chưa có mấy sự quan tâm. Trong khi đó, sự phát triển của ngành văn hoá học hiện đại lại đang chờ đợi nhiều câu trả lời từ phía nghiên cứu ngôn ngữ học. Bởi hơn bao giờ hết, sự phát triển của văn hoá mỗi dân tộc không chỉ bao gồm các vấn đề như dân tộc học, nhân học, lịch sử…theo nghiên cứu truyền thống mà còn bao gồm cả các vấn đề về văn học, ngôn ngữ theo các khuynh hướng nghiên cứu hiện đại. Nói một cách khác, nghiên cứu văn hoá, dù theo cách nào cũng không thể không chú ý đến ngôn ngữ. Chính ngôn ngữ đã trực tiếp hay gián tiếp làm nên văn hoá dân tộc không chỉ với góc độ nó là yếu tố bảo lưu, là dấu tích của văn hoá qua các thời kỳ mà còn cả những đặc điểm loại hình mang phẩm chất riêng của một thực thể ngôn ngữ. Đây chính là một trong các hướng nghiên cứu được PGS.TS Hữu Đạt quan tâm trong nhiều năm trở lại đây. Ngoài một số bài báo và công trình nghiên cứu đã cho công bố trước đó, công trình “Đặc trưng ngôn ngữ và văn hoá giao tiếp tiếng Việt” của ông do Nxb Giáo dục ấn hành Quý IV năm 2009 là một chuyên luận nghiên cứu sâu về vấn đề này. Với số lượng gần 300 trang sách ( khổ 14,5x20,5), cuốn sách là sự tích hợp sâu sắc những kiến thức của tác giả về các vấn đề ngôn ngữ và văn hoá, được trình bày trong 8 chương. Trong đó, chương 1được tác giả dành riêng để trình bày các vấn đề liên quan đến nguồn gốc của tiếng Việt và những đặc điểm loại hình mang tính đặc trưng của tiếng Việt với tư cách là một ngôn ngữ thuộc loại hình đơn lập phân tích tính. Một trong các ngữ liệu được tác giả dẫn ra để minh chứng cho tính độc đáo của tiếng Việt so với các ngôn ngữ khác loại hình ( tức các ngôn ngữ Âu châu) là hệ thống từ xưng hô. Qua việc so sánh từ xưng hô ngôi thứ nhất và thứ ba của tiếng Viêt với các từ xưng hô ngôi thứ nhất ( I, Je, Ja ) và ngôi thứ ba ( He,/she; el; on/ona ) của các ngôn ngữ Anh, Pháp, Nga, Hữu Đạt đã làm nổi bật tính phong phú, đa dạng của hệ thống từ xưng-gọi trong tiếng Việt với các sắc thái nghĩa tinh tế, cụ thể mang màu sắc của văn hoá phương Đông. Trong đó có sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các từ xưng hô trong hệ thống cũng như việc lâm thời sử dụng các từ chỉ quan hệ thân tộc, họ hàng làm các từ xưng gọi được dùng trong quan hệ xã hội ( tr 36-43).Với cách trình bày súc tích, nhưng rõ ràng, tác giả đã đem đến cho bạn đọc những hình dung vừa khái quát vừa cụ thể về bản sắc của tiếng Việt. Nó là cơ sở giúp cho người đọc nhận diện ra mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá được tác giả trình bày ở chương 2. Tại chương này, nhiều vấn đề liên quan đến văn hoá được giải thích sâu hơn, đó là: vai trò quan trọng của ngôn ngữ trong quá trình bảo lưu và sáng tạo ra văn hoá. Từ những dẫn liệu của văn học dân gian, của thành ngữ, tục ngữ cũng như cách nói năng, giao tiếp thường ngày, tác giả đã phân tích các thành tố nghĩa trong việc thể hiện các đặc trưng văn hoá dân tộc và con đường hình thành các biểu tượng văn hoá của người Việt. Các thành tố nghĩa được tác giả khảo sát kỹ trong các cấp độ ngôn ngữ khác nhau mà rõ nhất là ở cấp độ từ, cấp độ câu và cấp độ văn bản. Để làm rõ vấn đề này, tác giả đã so sánh một số cách thức biểu tượng trong tiếng Việt với tiếng Nga, tiếng Anh và một số ngôn ngữ khác nhằm làm nổi bật nhứng nét tiểu biểu của văn hoá truyền thống Việt Nam, một nền văn hoá nông nghiệp có sự phát triển sớm về trồng trọt và chăn nuôi (tr 94-104). Một số biểu tượng được tác giả quan tâm khảo sát để làm cứ liệu so sánh là biểu tượng “con rồng”, “con trâu” trong văn hoá Việt Nam và biểu tượng “con ngựa”, “con la”… trong văn hoá châu Âu. Những so sánh này liên quan đến cách tri nhận ngôn ngữ- một trong các khía cạnh quan trọng nhất của ngôn ngữ học tri nhận. Các ví dụ tiêu biểu về đặc trưng văn hoá được phản ánh qua ngôn ngữ có thể coi là các dấu ấn văn hoá còn để lại đậm nét trong kho tàng ca dao, thành ngữ, tục ngữ- vốn là viên ngọc quý của tư duy sáng tạo mang tính tập thể, được đúc kết qua nhiều thế hệ.
Trong quá trình phân tích và miêu tả những đặc điểm của giao tiếp tiếng Việt hiện đại, Hữu Đạt rất chú trọng đến sự khác biệt của các hình thức giao tiếp và bản chất của quá trình giao tiếp. Trong công trình này, ông nhấn mạnh đến các nhân tố chi phối hoạt động của các vai giao tiếp như: tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp, khả năng ngoại ngữ cũng như các yếu tố bản thể và quyền uy…( tr114-122). Sự chi phối của các nhân tố này trong tiếng Việt được ông lý giải như là một biểu hiện của văn hoá giao tiếp. Chẳng hạn, trong giao tiếp tiếng Việt, nhân tố tuổi tác có tác động mạnh đến việc dùng từ xưng hô ( như: ông, bà, anh, chị, mày,tao…) cũng như việc sử dụng các từ tình thái ( như : à, ư, ạ, nhé, nhỉ, vâng. dạ…).Qua sự can thiệp của nhân tố giới tính đến hoạt động giao tiếp ở mỗi giai đoạn phát triển tiếng Việt, người ta có thể thấy quá trình vận động của văn hoá từ chế độ xã hội phong kiến sang xã hội hiện đại. Cúng chính ở đây, bạn đọc có thể liên hệ đến vai trò tích cực của các cuộc cách mạng xã hội đối với sự vận động và phát triển của ngôn ngữ nói chung, của tiếng Việt nói riêng trong quá trình làm thay đổi bản chất và làm giàu có thêm những giá trị văn hoá của dân tộc ( chương V).
Nửa phần sau của công trình “Đặc trưng ngôn ngữ và văn hoá giao tiếp tiếng Việt” ( từ chương V đến chương VIII) là các nghiên cứu cụ thể về hoạt động giao tiếp của người Việt trong phạm vi gia đình và trong phạm vi xã hội cũng như các nghi thức lời nói thường gặp nhất trong ngôn ngữ đời sống hàng ngày. Các quan hệ giao tiếp như quan hệ vợ - chồng, cha – con, ông – cháu, anh – em được miêu tả rất sinh động và lý thú đã nói lên tính phức tạp của kiểu xưng-gọi thay vai, một hình thức giao tiếp rất phổ biến trong các vùng nông thôn Việt Nam trước đây cũng như hiện nay. Các kiểu xưng hô này (tr 150-177), theo tác giả, có tính ưu việt là, trong giao tiếp, người nói luôn thể hiện sự tôn trọng thể diện của đối tượng tham gia giao tiếp. Nhưng mặt khác, chính nó lại bộc lộ sự hạn chế là làm cho khối lượng các từ xưng gọi tăng lên tới mức cồng kềnh, gây ra hiện tượng đồng âm khác nghĩa. Đây là một vấn đề khá nan giải đối với người nước ngoài khi học tiếng Việt.
Trong quá trình khảo sát mối tương quan giữa hệ thống từ xưng hộ được dùng trong phạm vi gia đình và phạm vi xã hội, Hữu Đạt đã làm sáng tỏ những nét đặc trưng của văn hoá dân tộc được phản ánh qua từ ngữ và cách thức giao tiếp từ trong gia đình, họ tộc tới phạm vi làng, xã, và rộng hơn là phạm vi xã hội nói chung. Ông cho rằng, tính tích cực của sự chuyển hoá giữa các từ xưng-gọi dùng trong phạm vi gia đình sang phạm vi xã hội là nó làm cho quan hệ giữa các đồng nghiệp trong cơ quan, trong doanh nghiệp… trở nên thân mật, gần gũi. Nhưng mặt khác, chính cái đặc điểm có tính ưu việt này tự nó lại làm giảm đi hiệu lực của công tác quản lý hành chính do ngôn ngữ giao tiếp giữa các thành viên trong các guồng máy xã hội bị “gia đình hoá” , trở nên xuề xoà, dễ dãi, không còn tính khách quan cần thiết trong quá trình giải quyết công việc.
Có thể nói, công trình “Đặc trưng ngôn ngữ và văn hoá giao tiếp tiếng Việt” là một chuyên luận chú trọng nhiều đến mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá. Do vậy, theo góc độ này, văn hoá được nhìn nhận như là cái nội hàm bên trong, là cái phần nghĩa được hình thành ở cấp độ sâu hơn trong phần ngữ nghĩa của khái niệm được hình thành bởi vỏ hình thức ngữ âm của từ. Đây là những phần khá lý thú giúp bạn đọc có thể tìm hiểu thêm cách tri nhận của người Việt Nam về nhiều sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới xung quanh con người. Đối với người nước ngoài, đọc những trang phân tích của Hữu Đạt sẽ rất hữu ích. Bởi, như người ta thường nói, học ngoại ngữ không đơn thuần chỉ là học qui tắc ngữ pháp, cách phát âm và vốn từ vựng của ngôn ngữ ấy mà học ngoại ngữ, suy cho cùng là học một nền văn hoá cúa thứ tiếng mà mình đang quan tâm. Có lẽ vì ý thức rõ điều này cho nên, ngoài việc phân tích khá kỹ hệ thống từ tiếng hô cũng như cách đặt tên của người Việt, Hữu Đạt còn đưa ra nhiều ví dụ để so sánh phương thức cấu tạo các từ ghép chỉ quan hệ thân tộc, họ hàng trong tiếng Việt với các ngôn ngữ châu Âu như tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Nga để làm rõ cái bản sắc của văn hoá phương Đông được biểu hiện trong một bộ phận của hệ thống từ ghép tiếng Việt ( tr 189-192).
Có lẽ, những đặc điểm văn hoá dân tộc khiến người đọc dễ hình dung và nắm bắt nhất là phần khảo sát các nghi thức lời nói như: nghi thức chào hỏi, mời mọc, cảm ơn…cũng như phần miêu tả các hoạt động giao tiếp ngôn ngữ trong các đám hội hè, hiếu, hỷ…Cũng chính ở các phần này, qua sự phân tích của Hữu Đạt, người đọc càng có dịp hiểu sâu thêm bản chất của nền văn hoá Việt Nam là thứ văn hoá trọng tình, trọng nghĩa. Điều đó lý giải tại sao, trong giao tiếp người Việt vốn ưa thích nói vòng để tránh làm mất thể diện của đối tượng giao tiếp, một nguyên tắc được rất nhiều nhà nghiên cứu dụng học và các chuyên gia về lý thuyết giao tiếp trên thế giới đề cập. Ngoài ý nghĩa thực hành, chương cuối của cuốn sách còn góp phần làm sáng tỏ một số lý luận về hiện tượng nói vòng, một kiểu giao tiếp vốn không chỉ tồn tại riêng với tiếng Việt.
Nói tóm lại, công trình “đặc trưng ngôn ngữ và văn hoá giao tiếp tiếng Việt” là một công trình nghiên cứu công phu bàn về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hoá cũng như vai trò của ngôn ngữ trong quá trình hình thành bản săc văn hoá dân tộc. Nó không chỉ có giá trị về phương diện nghiên cứu mà còn rất hữu ích đối với việc dạy tiếng Việt cho người nước ngoài và dạy tiếng Việt cho người Việt từ góc độ văn hoá.
Hà Nội, mùa đông năm Ký Sửu.
Powered by Froala Editor