3 năm trước
Khổ 1 - Chương bốn của trường ca "Cuộc chiến mười ngàn ngày"
Khổ 1 - Chương bốn của trường ca "Cuộc chiến mười ngàn ngày" nói về không khí xây dựng của nhân dân miền Bắc sau hòa bình lập lại (sau 1954) và bóng đêm chiến tranh đang phủ trên nửa bầu trời Tổ quốc ở miền Nam. Đây cũng chính là chương thể hiện sự tìm tòi của nhà thơ trong việc sáng tạo ra các hình họa có giá trị biểu tượng cao về mặt ngữ nghĩa – một trong những đóng góp của Hữu Đạt được ghi nhận qua bài viết của TS. Nguyễn Thị Trà My đăng trong mục “Tạp chí Khoa học” của website này.
Powered by Froala Editor
Trong các bài đã đăng lần trước quanh cuộc tọa đàm về trường ca “Cuộc chiến mười ngàn ngày” bạn đọc đã được chứng kiến những tư liệu sinh động về hình ảnh của những chàng trai, cô gái từ mái trường đại học và phổ thông trung học (trước đây gọi là trường cấp 3) đã vô tư cống hiến tuổi xanh của mình cho cuộc chiến tranh giữ nước. Đó là những thanh niên như Lê Ngọc Văn, Triệu Xuân Điến, Đỗ Thị Hồng Xoan, Nguyễn Thanh, Đào Đại Hướng, Nguyễn Văn Bảy, Nguyễn Văn Tình… Họ là những thanh niên - học sinh lớn lên trong lòng chế độ Xã hội Chủ nghĩa ở miền Bắc, được thụ hưởng một nền giáo dục lành mạnh với những người thầy tâm huyết và tận tụy cống hiến cho nghề. Những thanh niên ấy, tuổi đời chưa đến hai mươi nhưng đã hiểu nỗi đau chia cắt của hai miền đất nước. Để giúp bạn đọc các thế hệ trẻ sau này hiểu được tầm vóc về sự hy sinh cao cả của họ, BBT xin trích đăng đoạn mở đầu trong chương bốn của bản trường ca “Cuộc chiến mười ngàn ngày”. Đây là phần nhà thơ Hữu Đạt nói về không khí xây dựng của nhân dân miền Bắc sau hòa bình lập lại (sau 1954) và bóng đêm chiến tranh đang phủ trên nửa bầu trời Tổ quốc ở miền Nam. Đây cũng chính là chương thể hiện sự tìm tòi của nhà thơ trong việc sáng tạo ra các hình họa có giá trị biểu tượng cao về mặt ngữ nghĩa – một trong những đóng góp của Hữu Đạt được ghi nhận qua bài viết của TS. Nguyễn Thị Trà My đăng trong mục “Tạp chí Khoa học” của website này.
Chương bốn
Khi chúng tôi lớn lên
Khi chúng tôi lớn lên
Đất nước đã hóa thành hai nửa
Tổ quốc đau chia cắt một dòng sông
Bờ vĩ tuyến bên tê là giặc
Bờ bên ni lúa vẫn xanh đồng
Nửa đất nước đi vào hợp tác
Ruông nương riêng gom lại hóa công điền
Nhà máy mở khói bay nghi ngút
Những ao hồ nay lại hóa công viên
Từ những nơi miền quê lam lũ
Lũ chúng tôi cùng nhau lớn lên
Một thế hệ được khoác bao ngôn mỹ
Với niềm vui làm chủ nhân ông
Đưa đất nước vươn theo thế kỷ
Từ sắn khoai ngô lúa trên đồng
Trang sách mở giấy thơm màu sữa
Mái trường tươi lớp ngói đỏ son
Ôn lịch sử những ngày nước mất
Triệu triệu người phải sống lầm than
“Nhờ có Đảng mới nên Tổ quốc
Tháng Tám mùa thu rực rỡ sao vàng”
Ngày tới lớp mang câu hát trẻ
Tối trở về náo nức chân đê
Rộn bước những bàn chân trong ngõ nhỏ
Bổ túc bình dân học vụ bốn bề
Đèn thắp sáng cả đình chùa miếu mạo
Giọng ê a ấm cả tiếng người già
Cơn khát chữ nay đây rồi có Đảng
Mắt mở ra qua bóng tối mù lòa
Đêm nô lệ lùi sâu vào dĩ vãng
Ngẩng đầu lên ai cũng đứng thành người
Không còn cảnh sân đình roi lý trưởng
Gậy trương tuần đánh đập mãi không thôi
Ôi đất nước sau ngàn năm Bắc thuộc
Một trăm năm nô lệ bởi người Tây
Nay bừng sáng chói lòa như ngọn đuốc
Kiêu hãnh đi lên trong đói rét bùn lầy
Đồng mở thửa dài theo tiếng máy
Cày lên bao thớ đất khô cằn
Nông trường gọi bao thanh niên xốc tới
Bàn tay người xới bật cả rừng xanh
Lớp lớp thanh niên rời xa thành phố
Lên phá đồi mở núi khai hoang
Bắt sỏi đá nương bờ cằn cỗi
Phải cho ta lúa ngọc ngô vàng
Những bài hát làm nên tên tuổi
Của một thời bát ngát lạc quan
Cứ những tưởng ngày mai là tới
một xã hội tương lai như thể Thiên đàng
Không đói rét
Không nghèo hèn
Chỉ có người đứng lên làm chủ
Là Nhân dân
Là quần chúng cần lao
Mọi cán bộ sẽ trở thành đầy tớ
Tận tụy vì dân
Sống chết cũng vì dân
Từ nông thôn bước ra thành phố
Niềm vui theo náo nức những bàn chân…
Đêm sáng chói những ngọn đèn đô thị
Ngày hân hoan khắp phố tiếng nói cười
Kìa, có thể giấc mơ nào hơn thế
Chót vót đỉnh cao sáu mốt, sáu mươi
Niềm vui sướng rót vào thơ tiếng hát
Chất ngất bay lên như tới tận ngang trời
“Đảng vĩ đại vươn xa tầm Tổ Quốc
Lời Bác Hồ bay xa mãi tận trùng khơi”
Suốt bốn nghìn năm cha ông đi dựng nước
Thệ hải minh sơn phải nhớ muôn đời
Dù có chết cũng phải giành độc lập
Cho núi sông thành một dải nối liền
Nếu phái đốt Trường Sơn thành ngọn đuốc
Toàn dân thề vẫn phải quyết xông lên
Máu thấm cả những trang Nghị quyết
Bầm tim Người đau hai tiếng miền Nam.
Khi chúng tôi lớn lên
Tổ quốc gãy
thành hai vùng chiến lược
Đường chiến tuyến
cắt theo hình dòng nước
(hình con quay)
Cầu Hiền Lương
ngơ ngẩn bóng trăng tàn
Vẫn trăng ấy một bên sao trời sáng
Còn một bên chỉ thấy những mây đen
Đêm nơm nớp vọng nghe từ bốt giặc
Tiếng súng cầm canh rót xuống những đêm dài
Lệnh Tổng thống dồn dân về lập Ấp
Những cuộc lục sùng đi tìm bắt khắp nơi
Đường quốc lộ bị ngăn thành chiến lũy
Thôn xóm chìm sau bốn phía thép gai
Từ những bến sông
Từ những rặng dừa
Những con đò
Im lìm
Đi
(hình cây thánh giá)
Đêm
khép
lại
Những
bàn tay
nắm chặt
Bao cuộc chia ly ứớt đầm trong nước mắt
Biết bao giờ
giặc hết
để em
được
đón
anh
về ?
để
anh
kể
chuyện miền Bắc
chuyện Bác Hồ
chuyện Trung Quốc
chuyện Liên xô
Lời em ngọt ngào
theo tiếng chèo khua
Lòng anh nhói đau
theo cơn sóng vỗ
(hình tháp xuôi)
Kẻ ở
Người đi
nói gì được nữa
Lặng thầm trao chiếc khăn tay
Hai năm là bao nhiêu ngày
Hai năm là bao nhiêu tháng
Liệu đất nước mình có thống nhất được chăng?
Powered by Froala Editor