datetime.u_day
ĐỔI MỚI VÀ HƯỚNG ĐI CỰC ĐOAN Hữu Đạt
Tinh thần “quyết không chịu kém thiên hạ” được thể hiện khá mạnh mẽ không chỉ ở trong đội ngũ lãnh đạo của một số ngành khoa học nước ta mà ngay trong đội ngũ các nhà văn, nhà phê bình lý luận của nước nhà. Chính vì thế, ở thế giới có gì thì Việt Nam cũng phải có, thậm chí phải có nhiều hơn, càng hơn nhiều càng tốt.
Powered by Froala Editor
ĐỔI MỚI VÀ HƯỚNG ĐI CỰC ĐOAN
Hữu Đạt
Tinh thần “quyết không chịu kém thiên hạ” được thể hiện khá mạnh mẽ không chỉ ở trong đội ngũ lãnh đạo của một số ngành khoa học nước ta mà ngay trong đội ngũ các nhà văn, nhà phê bình lý luận của nước nhà. Chính vì thế, ở thế giới có gì thì Việt Nam cũng phải có, thậm chí phải có nhiều hơn, càng hơn nhiều càng tốt. Bạn đọc hãy cùng kiểm tra lại xem, điều này tôi nói có đúng không? Lấy ví dụ, đến năm 2020, ở Việt Nam có 460 trường Đại học và Cao đẳng, nếu chia cho 61 tỉnh thành, thì mỗi tỉnh thành ở VN ta có tới hơn 7 trường ĐH và CĐ. Theo thống kê đến năm 2018 Việt Nam có tổng số 235 trường đại học, học viện, (bao gồm 170 trường công lập, 60 trường tư thục và dân lập, 5 trường có 100% vốn nước ngoài), 37 viện nghiên cứu khoa học được giao nhiệm vụ đào tạo trình độ tiến sĩ. Đó là một con số rất “kỷ lục”,vì tính bình quân, mỗi tỉnh nước ta có tới gần 4 trường đại học hoặc học viện được giao nhiệm vụ đào tạo trí thức bậc chất lượng cao ( trình độ TS). Thử hỏi, trên thế giới có mấy nước đạt được con số kỷ lục ấy?
Về cơ bản, các trường đại học công lập đều có đủ điều kiện đạo tạo tiến sĩ. Nhưng một số trường đại học tư thục và dân lập do sinh sau đẻ muộn nên chưa đủ lực lượng, nhân sự rất mỏng nên phải thuê mướn them bên ngoài. Nhưng dù thế nào thì việc đào tạo tiến sĩ cũng không chịu thua kém các trường bạn. Như thế, với hơn 200 “lò” đào tạo tiến sĩ hiện đại, tính theo dân số kịch đỉnh là 100 triệu dân thì nước ta cứ 1triệu dân là có hai “lò” mở cửa để đón chào các tân tiến sĩ. Vậy sao có thể nói nền giáo dục nước ta không thuộc hàng tiên tiến của khu vực và thế giới? Trong tư thế ấy, khắp cả nước, các “lò” tiến sĩ phải cháy lên rừng rực. Với các “khuôn đúc” đã có rồi, chỉ cần tư liệu nhét vào cho đầy rồi gia cố thêm “các yếu tố kỹ thuật” là sẽ thành LA. Tất nhiên, các TS làm LA kiểu này, dù bảo vệ thành công thì sau khi nhận bằng TS, họ cũng chỉ coi đó là một thứ trang điểm làm đẹp cho cuộc đời trí thức của mình mà không thể phát huy thêm được gì nữa. Về vấn đề này, các bạn hãy kiểm tra để chứng thực lời phiếm của tôi. Có rất nhiều TS, thậm chí cả GS sau khi nhận học vị, chức danh rồi, họ chỉ còn việc ngồi trong các Hội đồng để phán về các LA mới và cầm các phong bì “tiền tươi” đem về bỏ vào ngăn kéo tủ, hoặc là ngồi trong các Hội đồng chấm giải thưởng nghiên cứu, sáng tác và phê bình, từ Hội đồng Lý luận Trung ương xuống các đơn vị cơ sở. Nhà phê bình Bùi Việt Thắng, trong một bài viết đã chỉ ra có vị GS trong cả đời chỉ viết có một bài mà ông dùng từ “nhõn” để nhấn mạnh cái số ít bất thường của nó. Như thế, cái chủ trương đào tạo 20.000 tiến sĩ do ông Bộ trưởng đề ra nhằm đẩy nhanh nền học vấn nước nhà kết cục lại chỉ là một phong trào: Đó là phong trào chạy đua bằng cấp. Tất nhiên, cả trong khoa học lẫn sáng tác văn học, sản phẩm nào đã là của phong trào thì hiếm lắm mới có vài sản phẩm có chất chất lượng tốt, còn đại đa số là những thứ vô thưởng vô phạt. Không có có thì thiếu, mà có thì thừa. Nếu kiểm tra kỹ lại sẽ thấy, các LA ở ta đề tài nào cũng có, lý thuyết nào cũng có. Từ lý thuyết văn bản đến lý thuyết hội thoại, từ lý thuyết hành vi đến lý thuyết tri nhận; từ lý thuyết giải cấu trúc đến lý thuyết hậu hiện đại … mâm bát nào ta cũng đủ cả, cũng bàn tới phới như là đã trải qua, đã chiêm nghiệm. Nhưng thật là oái oăm thay, chúng ta là một đất nước vừa thoát khỏi chiến tranh, chưa bước chân ra hết khỏi thời kỳ lạc hậu thì bàn về “hậu hiện đại” làm sao thuyết phục? Trong khi ở các nước khác, người ta đã sống và trải qua thời kỳ đại công nghiệp mới có được tư duy “hậu hiện đại chứ”?. Vậy mà nhiều giải thưởng thơ của chúng ta lại hướng về trao giải các sáng tác gọi là có tinh thần “hậu hiện đại” cứ như không.
Như thế đủ thấy, nhìn ở lĩnh vực nào mình cũng hơn thế giới chứ quyết không chịu thua anh nào cả. Thế cho nên mới có vô số các công trình chuyên luận, chuyên khảo, khóa luận, luận văn, LATS viết về thơ Xuân Diệu. Công trình nào cũng đạt điểm giỏi và xuất sắc, có công trình còn được giải thưởng. Tất cả đều xoay quanh chỉ một chữ “yêu”. Phát hiện mới nhất ở giai đoạn này là chúng ta đã tìm thấy một thi sĩ Xuân Diệu mới. Nếu thi sĩ Xuân Diệu trước đây là một thi sĩ lãng mạn chỉ yêu bằng cái tôi riêng của mình, lạc lõng trước nhân dân và thời cuộc thì nay, qua SGK mới và qua các nhà nghiên cứu có xu hướng quyết liệt về Đổi mới, ông bỗng trở thành một nhà thơ hiện thực “chân chính” đến mức, nhiều kỳ thi đại học, thí sinh viết rất hăng say “Xuân Diệu là nhà thơ hiện thực nhất trong các nhà thơ theo chủ nghĩa hiện thực”. Nhiều em còn viết “rực rỡ” hơn : “Xuân Diệu là nhà thơ vĩ đại nhất trong mọi thời đại”… Nhiều lần chấm thi đại học tôi choáng hết cả người. Sự Đổi mới nhanh đến mức chóng mặt từ các nhà làm lý luận và phê bình văn học đã tạo ra cho xã hội những sản phẩm tư duy vượt cả “hậu hiện đại”. Thành tích của việc dạy và học văn ở đây tạo ra một đồ thị đồng dạng với chương trình đào tạo tiến sĩ của Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân. Trên báo chí, có lúc các nhà lý luận và các nhà thơ chỉ trích nhau gay gắt chỉ vì không xác định được câu thơ của Xuân Diệu đâu là đúng, đâu là sai: “Hai tay chín nóng bám vào đời”? hay “Hai tay chín móng bám vào đời?”. Ấy vậy mà bài “Hư vô” của Xuân Diệu lại đưa vào bài đọc thêm trong chương trình Văn phổ thông ngang bằng với nhiều bài thơ của Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Chế Lan Viên … Chúng ta hãy bình tĩnh nhìn lại. Ngay cái tên bài là “Hư vô” đã chứng tỏ nó là bài thơ làm theo bút pháp lãng mạn rồi. Thế mà, chúng ta quyết không chịu nhau, coi đó là bài thơ “hiện thực” hơn tất cả các bài thơ “hiện thực” khác thì đủ biết, về mặt lý luận, bước sang Đổi mới chúng ta mất phương hướng và khủng hoảng biết chừng nào! Học sinh thi đại học có ca ngợi Xuân Diệu là nhà thơ “hiện thực nhất” “yêu cỏ cây hoa lá nhất trong các nhà thơ” cũng là điều dễ hiểu. Năm 2002, tôi đã cho xuất bản cuốn sách “Phong cách học với việc dạy văn & Lý luận và phê bình văn học” (Nxb Hà Nội) phân tích khá kỹ hiện trạng bi đát đó. Chính tôi cũng không hiểu tại sao các GS chịu trách nhiệm biên soạn SGK mới lại có thể cho ra một chương trình kỳ lạ như vậy: Riêng số tiết dạy về thơ Xuận Diệu chiếm hơn nửa cả số tiết dạy cả thơ ca của toàn bộ Phong trào Thơ mới. Trong khi, nghiêm túc xem xét về sự nghiệp thơ ca và đóng góp nghệ thuật đích thị của Xuân Diệu thì nói ông vượt qua Huy Cận đã khó, chưa nói lại bằng hơn cả nửa một phong trào/ trào lưu sáng tác thơ ca suốt 15 năm ở đầu và giữa thế kỷ XX. Thế nhưng, nói như một vị giáo sư khi tranh cãi về thẩm định SGK mới năm 2019, chương trình là pháp lệnh. Viết theo chương trình nên được thẩm định là đương nhiên. Cũng vì coi “chương trình” là pháp lệnh nên bộ SGK mới của GS Hồ Ngọc Đại bị loại khỏi “vòng chiến” một cách hợp thức! Nhưng pháp luật ở đây được hình thành như thế nào? Đó là chủ trương của Ngài Bộ trưởng với một chương trình do mấy vị cố vấn theo hướng Đổi mới theo cách thái quá dựng nên. Họ Đổi mới theo cách làm của Cách mạng vô sản thời sơ khai: “Đường tàu của chủ nghĩa tư bản cũng phải bóc tuốt” vì đó là sản phẩm của bọn tư bản bóc lột. Chính vì thế, ai đã khoác tên nhà thơ Cách mạng thì lúc này đều được nhìn như là chủ thể của thứ văn học cần “ai điếu”, thứ văn học “minh họa” và “giáo điều”. Nếu không bị chê bai thẳng thừng như nhiều người đã làm với Tố Hữu thì họ cũng lặng lẽ bị loại bỏ. Nhiều tác phẩm thơ của những tên tuổi lớn trong thơ ca hiện đại lúc này bị ném đi một cách không thương tiếc khiến cho nhiều giáo viên Văn cấp 3 về hưu sửng sốt, ngỡ ngàng. Họ không tin vào mắt mình khi cầm cuốn SGK mới với cách bố trí phân lượng về tiết giảng cũng như cách giảng văn của một số nhà nghiên cứu cấp tiến đưa ra. Môn văn học, từ truyền thống là một môn người học yêu thích bỗng trở thành môn mà học sinh chán ghét và đáng sợ.
Trong một bài viết cho tạp chí “Tia sáng” cách đây gần hai mươi năm, tôi đã nêu một nhận định “Ở Việt Nam, nhiều ngành khoa học xã hội của ta cứ đi sau 50 năm lại trở về vạch xuất phát ban đầu”. Nhận định này có lý vì, chỉ nhìn vào cách giảng và dạy thơ Xuân Diệu trong SGK mới giai đoạn những năm 2000 cũng có thể thấy, chương trình biên soạn không dựa trên một cơ sở khoa học nào mà chỉ dựa vào một câu phán của Hoài Thanh từ trước năm 1940 của thế kỷ trước “Xuân Diệu là ngôi sao sáng nhất của Phong trào Thơ mới”. Trong khi đó, nếu khảo sát về mặt thi pháp thì những đóng góp của Xuân Diệu về mặt nghệ thuật thơ chỉ có giới hạn. Chúng ta hãy lục tìm lại xem, các bài thơ hay nhất của Xuân Diệu liệu có được chục bài? Vậy mà ông được đôn lên thành một tác gia văn học có tầm bằng phân nửa số các thi sĩ của một trào lưu sáng tác thi ca. Điều đó cho thấy, lý luận phê bình của chúng ta sau gần nửa thế kỷ lại quay về đúng điểm xuất phát ban đầu.
Khi xuất bản cuốn phê bình phong cách học có tên: “Từ văn học kháng chiến đến văn học Đổi mới” (Nxb Hội Nhà văn năm 20210) tôi có riêng một bài “Hành trình SGK” để tổng kết lại những thất bại thảm hại của hướng Đổi mới giáo dục sai lầm, theo cách làm của lý trí luận. Những bài viết như thế rất cần được các vị có trách nhiệm trong cơ quan lãnh đạo Bộ nghiên cứu kỹ lưỡng để có những giải pháp chấn chỉnh kịp thời tình hình. Nhưng có lẽ, không bao giờ có chuyện ấy. Mặc dù, sự thật hiện ra trước mắt các nhà giáo, các nhà chuyên môn như ánh sáng ban ngày, nhưng đến nay, dường như tâm trạng chán nản và thất vọng đã trở thành phổ biến, nên chẳng ai muốn nói những suy nghĩ của mình về một thời cuộc mà nhiều giá trị đang mất dần các chuẩn tắc để đánh giá. Mà nói, liệu có kết quả gì?
Có thể nói, một trong các yếu tố làm sói mòn niềm tin và mất phương hướng trong lý tưởng sống của lớp trẻ chính là do cách thức giáo dục của chúng ta. Đường lối mà Bộ Chính trị và Trung ương Đảng vạch ra dường như không có vị Bộ trưởng nào đảm nhiệm được. Các vị lãnh đạo được bổ nhiệm đều rất đúng qui trình. Nhưng qui trình bổ nhiệm cán bộ không thể thay thế được cái Tâm và cái Tài của người đứng đầu một Bộ quan trọng như Bộ Giáo dục và Đào tạo, vì đây là nơi đào tạo con người.
Powered by Froala Editor