Viện phương đông

2 năm trước

“Tiếng Việt từ thời LM de Rhodes - Kinh Lạy Cha và Philiphê Bỉnh (2) Nguyễn Cung Thông

Để ý là cách gọi Kinh Lạy Cha chưa xuất hiện vào thời đại LM Philiphê Bỉnh so với cách gọi Kinh Thiên Chúa. Do đó chỉ một đoạn văn ngắn bằng chữ quốc ngữ trên, ta có thể nhận ra vài tính cách của LM Philiphê Bỉnh khi soạn các tài liệu viết tay này:

Powered by Froala Editor

“Tiếng Việt từ thời LM de Rhodes - Kinh Lạy Cha  Philiphê Bỉnh - vài nhận xét thêm (phần 5E)”      (2)

                                            Nguyễn Cung Thông

2. Kinh Lạy Cha bằng chữ quốc ngữ (ghi nhận qua Philiphê Bỉnh)



---------------------------------------------------------------    

[1] Trích từ tài liệu/bảng từ vựng tiếng Đàng Trong và La Tinh "Lexicon Cochin-sinense Latinum" của giáo sĩ Josepho Maria Morrone (cùng thời với LM Philiphê Bỉnh) trao lại cho trung úy hải quân Mỹ John White ở Sài Gòn trước khi ông này rời Việt Nam trở về Mỹ năm 1820. Tuy ghi là từ vựng tiếng Đàng Trong nhưng nôi dung và các từ dùng trong tài liệu là tiếng Đàng Ngoài.

Các cách đọc bằng chữ quốc ngữ trên từ bản Nôm KLC hoàn toàn phù hợp với cách đọc của chính người chép là LM Philiphê Bỉnh như trang trên - xem hình chụp bên dưới - tuy nhiên phần chữ quốc ngữ không có các đoạn trong KLC chữ Nôm như

- thiên địa chân chúa

- (hằng ngày) dùng đủ

- (cũng tha) kẻ có nợ chúng tôi vậy

- amen

LM Philiphê Bỉnh cũng giải thích nguồn gốc Kinh Thiên Chúa này là từ Đức Chúa Giê Su truyền cho các Thánh Tông Đồ (12 người được Đức Chúa Giê Su chọn để đi truyền đạo), sau đó các Thánh Tông Đồ truyền lại cho giáo dân và còn đọc cho đến ngày hôm nay. Để ý là cách gọi Kinh Lạy Cha chưa xuất hiện vào thời đại LM Philiphê Bỉnh so với cách gọi Kinh Thiên Chúa. Do đó chỉ một đoạn văn ngắn bằng chữ quốc ngữ trên, ta có thể nhận ra vài tính cách của LM Philiphê Bỉnh khi soạn các tài liệu viết tay này:

2.1 Viết tắt như bằng ông viết là bg`, Đức Chúa Jesu ông viết thành Đ. C. J., thánh viết thành th', chúng có lúc viết thành chŭ , tôi có lúc viết thành t., ngày thành ng` ...v.v... Do đó, không ngạc nhiên khi thấy chữ Nôm trong cùng một tài liệu (nếu ông chính là người viết) ghi theo kiểu thảo thư rất khó đọc như chữ trời 𡗶 ở bên trên chẳng hạnThí dụ như chữ để  đã ghi bên trên, so sánh chữ để viết trong nguyên bản KLC và các dạng theo thảo thư TQ:


chữ để  viết trong nguyên bản KLC     底 Khải thư

 Các dạng thảo thư TQ của chữ để

2.2 Không viết hoa trong một số trường hợp (danh từ riêng) như kinh thiên chúa, những trường hợp danh từ riêng tiếng ngoại quốc thì viết hoa như Đ. C. J., Đomingos và Đôtôre (< Doctor tiếng La Tinh - doutor là tiếng Bồ Đào Nha cổ, không có phụ âm cuối lưỡi k trước vần –tor, giống như cách viết của Philiphê Bỉnh).

2.3 Đoạn KLC từ tài liệu chép tay trên còn cho thấy các tổ hợp phụ âm bl- và ml- còn hiện diện vào thời LM Philiphê Bỉnh: mlời (~ lời) và blời (~ trời). Qua các tự điển của LM Béhaine (1772/1773) và Taberd (1838), Đàng Trong vào thời này đã không còn các tổ hợp phụ âm bl- và ml- như Đàng Ngoài. Các tổ hợp phụ âm này đã hiện diện vào thời VBL (năm 1651), cho thấy Đàng Ngoài vẫn còn bảo lưu cách ghi âm này so với Đàng Trong. Một điều nên ghi nhận ở phần này về tổ hợp phụ âm bl-: cũng trong các tài liệu viết tay của LM Philiphê Bỉnh, ông có lúc dùng dạng gi- tương đương như blối và giối - phản ánh giai đoạn đầu của biến âm bl- > gi- ở Đàng Ngoài. Đàng Trong dùng trối (chữ Nôm 𡂳 với thành phần HT là lỗi ).

Trích từ trang 428 "Sách Sổ Sang chép các việc" dùng blối (thì blối cho nó rằng).

Trích từ trang 421 "Sách Sổ Sang chép các việc" dùng giối (thì chẳng kịp giối bảo).

Ngoài liên hệ blối - giối, các cách đọc rất đặc biệt của Đàng Ngoài (< Hải Dương) đáng được ghi lại ở đây

blái - giái (trái)

blang - giang (trang)

blăng – giăng  ...v.v...

Trích từ tự điển chép tay Việt Bồ (TK 18)

2.4 Để ý chữ đầu đề của trang KLC là (các kinh thường đọc) chiều hôm ban sáng - hai loại chữ cùng hiện diện vào thời kì này. Điều này cho thấy các tác giả như LM Philiphê Bỉnh, tuy soạn tài liệu qua dạng chữ quốc ngữ, nhưng vẫn có một số kiến thức về chữ Nôm như bản KLC này chẳng hạn. Ít người biết rằng LM Philiphê Bỉnh đã soạn một số tài liệu bằng chữ Nôm như là chủ đề phần 5E này.

2.5 Có 17 lần ngắt câu (dấu o trong bài viết) hay ít nhất là gấp hai lần so với các bản Nôm KLC khác thường có khoảng 8 lần. Nếu xét về nội dung KLC với 7 điều nguyện: ba điều dâng cho Đức Chúa Trời và bốn điều từ nhu cầu người nguyện, thì không khó giải thích nếu ngắt cắt KLC thành khoảng 8 đoạn nhỏ. So sánh với các bản KLC bằng chữ quốc ngữ từ TK 17 thì cũng có khoảng 7 hay 8 đoạn nhỏ. Tuy nhiên, tại sao lại có 17 đoạn nhỏ trong bản Nôm KLC của LM Philiphê Bỉnh? Một cách giải thích là cách đọc KLC như một bài hát cần ngân dài và có âm điệu[1] vào thời này, do đó cần phải ngắt câu nhiều hơn bình thường ...v.v...

Tóm lại, chỉ qua một đoạn văn nhỏ như Kinh Lạy Cha[2], qua thủ bút của LM Philiphê Bỉnh, bằng chữ Nôm và bằng chữ quốc ngữ thì ta có thể nhận ra sự khác biệt giữa tiếng Việt Đàng Ngoài so với tiếng Việt Đàng Trong[3] (bây giờ gọi là phương ngữ Bắc so với phương ngữ Nam). Một số từ cổ không còn dùng nữa cùng với những thay đổi trong đại từ nhân xưng (td. tao, mày, chúng tôi) và danh xưng (td. Kinh Thiên Chúa thay vì Kinh Lạy Cha). Số chữ của toàn Kinh Lạy Cha cũng là một chỉ số cho ta thông tin thêm về ngôn ngữ và lịch sử VN. Áp lực cấm đạo trở nên rất lớn vào những thập niên 1840 và 1850 đến nỗi Kinh Lạy Cha phải cắt bỏ nhiều chữ và chỉ còn 49 chữ (bản KLC chữ Nôm năm 1855) - một phần để đọc kinh cho nhanh và một phần để tránh phiền phức từ chính quyền đương thời (chỉ dùng chữ Hán/Nôm nên KLC chữ Nôm[4] không có câu quốc Cha trị đến chẳng hạn). Năm 1859 thì Pháp chính thức xâm chiếm Nam Kỳ: xem biểu đồ số chữ KLC theo dòng thời gian (năm) bên dưới - bắt đầu từ bản KLC năm 1632 có 70 chữ cho đến bản KLC năm 2017 có 71 chữ so với bản tiếng Trung hiện đại (Chinese Union Version) có 95 chữ! Tham khảo biểu đồ về số chữ KLC bên dưới: điểm cực tiểu xẩy ra vào năm 1855, một móc xích quan trọng cho quá trình xâm lăng VN từ nước Pháp.  


[1] Thí dụ như tục ngắm của CG: vừa đọc chậm và vừa ngân nga như ngâm thơ, ngâm vịnh và vừa suy nghĩ về lời ca. Thí dụ như bài "Ngắm 15 Sự Thương Khó Đức Chúa Giêsu" mà nhiều người cho rằng tác giả là LM de Rhodes. Có thể coi ngắm CG là một loại 'dân ca tôn giáo VN'.

[2] Thật ra còn cách gọi Kinh A Vê trong cột thứ ba, sau này đổi thành Kinh Kính Mừng (Đàng Trong) - tham khảo thêm bài viết “Tiếng Việt từ thời LM de Rhodes – các khuynh hướng dịch tiếng nước ngoài ra tiếng Việt: trường hợp bản Kinh Kính Mừng” (phần 26) cùng tác giả (NCT).

[3] Ngay từ thời tự điển Việt Bồ La đã bắt đầu ghi nhận như lợn/heo/sinh, mè/vừng, mũ/nón ...

[4] Nên nhắc lại ở đây là bản KLC chữ quốc ngữ năm 1855 vẫn còn giữ câu "Quốc Cha trị đến".

Hi vọng bạn đọc sẽ thấy hứng thú qua loạt bài viết này và tìm hiểu sâu xa hơn về tiếng Việt qua các tài liệu CG trước đây - qua các dạng chữ Hán, chữ Nôm và chữ quốc ngữ; cũng như tìm thấy nhiều kết quả thú vị như liên hệ giữa ngôn ngữ[1], tôn giáo, văn hóa và lịch sử hình thành nước Việt Nam ngày nay.

3. Tài liệu tham khảo chính và ghi chú thêm

1) Pigneau de Béhaine (1772/1773) - Bá Đa Lộc Bỉ Nhu "Dictionarium Annamitico-Latinum" Dịch và giới thiệu bởi Nguyễn Khắc Xuyên, NXB Trẻ (Thành Phố HCM - 1999).

                                    (1774/Quảng Đông à Địa phận Đàng Trong tái bản năm 1837) "Thánh Giáo Yếu Lý Quốc Ngữ" 聖教要理國語 viết bằng chữ Nôm theo dạng Hỏi-Thưa. Y Doãn Ninh/Lê Bảo Tịnh phiên âm và chú giải, La Vang Tùng Thư xuất bản (Mỹ).

2) Đỗ Quang Chính (1972) “Lịch sử chữ quốc ngữ 1620-1659” NXB Đuốc Sáng (Sài Gòn).

3) Nguyễn Hồng (1959) "Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam - Quyển 1 - Các Thừa Sai dòng Tên 1615 - 1665" NXB Hiện Tại (Sài Gòn).

4) Nguyễn Quang Hồng (2015) "Tự điển chữ Nôm dẫn giải" Tập 1 và 2 - NXB Khoa Học Xã Hội/Hội Bảo Tồn Di Sản Chữ Nôm (Hà Nội).

5) Roland Jacques (2004) « Les missionnaires portugais et les débuts de l’Église catholique au Viêt-nam » (Các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha và thời kỳ đầu của Giáo hội Công giáo Việt Nam) - NXB Đinh Hướng Tùng Thư (Pháp). Có thể đọc các bài viết của LM Roland Jacques trên mạng như http://www.dunglac.info/index.php?m=home&v=detail&ia=11502 . Các bài viết như "Chứng tích hình thành và phát triển chữ quốc ngữ từ năm 1632 đến nay: tiến trình của Kinh Lạy Cha" của Roland Jacques (người dịch Nguyễn Đăng Trúc) trên mạng này http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=18656 …v.v…

6) Halario de Jesu (thế kỷ XVIII) "Sách Các Phép" bằng 3 thứ chữ Nôm, La Tinh và quốc ngữ. Sách lưu hành nội bộ (1997).

7) Giêrônimô Maiorica (thế kỷ XVII) "Mùa Ăn Chay Cả", "Thiên Chúa Thánh Mẫu - Quyển thượng", "Thiên Chúa Thánh Mẫu - Quyển trung", "Đức Chúa Giê-Su - Quyển chi cửu & Quyển chi thập", "Thiên Chúa Thánh Giáo Hối Tội Kinh", “Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông”, "Kinh Những Ngày Lễ Phục Sinh - Quyển thứ ba", “Các Thánh Truyện”. Sách lưu hành nội bộ (năm xuất bản 2002/2003 - LM Nguyễn Hưng).

8) Josepho Maria Morrone (khoảng đầu TK 19) “Lexicon Cochin-sinense Latinum” đăng trong cuốn “A Dissertation on the nature and character of the Chinese system of writing” viết bởi nhà ngôn ngữ Mỹ Peter Stephen Du Ponceau (1838), in lại bởi NXB Kessinger Publishing. Kèm thêm bảng từ vựng căn bản có 333 chữ Nôm và chữ quốc ngữ với giải thích.

9) Alexandre de Rhodes (1651) "Phép Giảng Tám Ngày" - Tủ Sách Đại Kết in lại từ Tinh Việt Văn Đoàn (1961 - Sài Gòn) với phần giới thiệu của tác giả Nguyễn Khắc Xuyên.

                                     (1651) “Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum” thường gọi là từ điển Việt-Bồ-La; bản dịch của Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính - NXB Khoa Học Xã Hội, Thành Phố HCM (1991).

                                    “Tường Trình về Đàng Trong 1645” bản dịch của Hồng Nhuệ, NXB Ánh Sáng Publishing, Escondido (California/Mỹ, 1994?).

                                    "Lịch sử Vương Quốc Đàng Ngoài từ 1627 tới năm 1646" dịch giả Nguyễn Khắc Xuyên - Tủ sách Đại Kết, Thành phố HCM (1994).

10) Jean Louis Taberd (1838) - tên Việt là cố Từ - "Dictionarium Annamitico-Latinum" Serampore (Bengale).

11) Nguyễn Cung Thông  (2018) “Tiếng Việt từ thời LM de Rhodes - Kinh Lạy Cha” phần 5A cho đến phần 5D (bốn bài viết) - tham khảo loạt bài này trên trang này chẳng hạn http://www.vietnamvanhien.org/TiengVietThoiLMRohdesKinhLayCha.pdf  hay http://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/tieng-viet-tu-thoi-lm-de-rhodes-kinh-lay-cha-phan-5a/ hay http://conggiao.info/tieng-viet-tu-thoi-lm-de-rhodes---kinh-lay-cha---phan-5c-d-53320 ...v.v.(2021) "Tiếng Việt từ TK 17: thợ dào, thợ rèn, thợ máy … dộng chúa (phần 30)" - có thể xem toàn bài trên trang https://nghiencuulichsu.com/2021/06/17/tieng-viet-tu-tk-17-tho-dao-tho-ren-tho-may-dong-chua-phan-30/ ; “Tiếng Việt từ thời LM de Rhodes – các khuynh hướng dịch tiếng nước ngoài ra tiếng Việt: trường hợp bản Kinh Kính Mừng (phần 26)" - có thể xem toàn bài trên trang này chẳng hạn http://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/tieng-viet-tu-thoi-lm-de-rhodes-cc-khuynh-huong-dich-tieng-nuoc-ngoi-ra-tieng-viet-truong-hop-ban-kinh-knh-mung-phan-26/ … ..

Phụ Trương Chữ dữ trong bản Nôm KLC/Philiphê Bỉnh - vài dạng thảo thư của chữ dữ 

so với khải thư  與


                                                                                        (hết)    

Powered by Froala Editor