Viện phương đông

2 năm trước

“Tiếng Việt từ TK 17: cách dùng nghỉ ... nghỉ làm” phần 33 ( kỳ 2) Nguyễn Cung Thông

Phần trên bàn về cách dùng nghỉ và chưa đi sâu vào ngữ pháp: thí dụ như câu nói (khẩu ngữ) "của cải thường thôi ~ tài sản thường ~ tài sản bình thường/thường thường" thì Truyện Kiều (thi cú) viết "Gia tư nghỉ cũng thường thường bậc trung": so với tiếng Việt vào TK 17, các câu thường lặp lại ý bằng các đoản ngữ theo sau ý chính, nhưng cũng lặp lại ý đó.

Powered by Froala Editor

                       “Tiếng Việt từ TK 17: cách dùng nghỉ ... nghỉ làm”     phần 33       (kỳ 2)

                                                                                                           Nguyễn Cung Thông

2.2 Chữ y  (thanh mẫu ảnh  vận mẫu chi  bình thanh, khai khẩu tam đẳng) có các cách đọc theo phiên thiết

於脂切 ư chi thiết (TVGT, NT, ĐV, QV, TTTH)

於夷切 ư di thiết (TV, LT)

幺夷切 yêu di thiết (VH)

於宜切 ư nghi thiết (CV, TVi) TVi ghi âm y 音衣

TNAV ghi thanh mẫu ảnh vận mẫu 齊微 (dương bình)

CV ghi cùng vần/bình thanh (y *ý *ế)

於欺切音衣 ư khi thiết, âm y (ý) (CTT) ...v.v...

Giọng BK bây giờ là yī so với giọng Quảng Đông ji1 và các giọng Mân Nam 客家[县腔] j1 [台湾四县腔] ji2 [客英字典] ji1 [语拼音字汇] yi1 [陆丰腔] ri2 [陆丰腔] ji1 [宝安腔] ji2 ji1 [东莞腔] ji1 潮州话:i1.

Một dạng âm cổ[1] phục nguyên của y là *ʔi mà tiếng Việt còn bảo lưu qua dạng *ŋi hay nghỉ vào thời VBL. Một điểm đáng nhắc ở đây là dựa vào phiên thiết, y còn có thể đọc là *ɲi (nhi tiếng Việt) so với cách đọc chữ nhất 於悉切 ư tất thiết (TVGT, ĐV, QV, LT), 於逸切 ư dật thiết (NT, TTTH)…v.v… Tuy nhiên VBL[2] còn cho thấy khuynh hướng hầu (họng hay cuối lưỡi) hóa của các âm ngạc cứng như nhành 


[1] Nhìn rộng ra hơn, so sánh với các đại từ nhân xưng ngôi thứ ba HV như cừ  (âm trung cổ *ɡɨʌ), kì  hay  đều bắt đầu bằng phụ âm cuối lưỡi - và các dùng tương ứng trong tiếng Khme như គេ /kee/, គេហ៍ /kei/, គេ /kei/ ... gợi ý cho ta về nguồn gốc cách gọi *ŋi: đây là một chủ đề thú vị nhưng không nằm trong phạm vi bài viết này. Tham khảo thêm các trang 420-421, 436 cuốn "ABC Etymological Dictionary of Old Chinese" của GS Axel Schuessler, University of Hawai'i Press 2007.

[2] Thời VBL vẫn thường dùng dạng nhiệm nhặt so với nghiêm ngặt trong tiếng Việt hiện đại.

----------------------------------------------------------------------- 

[1] Thời VBL thường dùng nước người so với ngoại quốc, quốc ngoại, nước ngoài trong tiếng Việt hiện đại.

[2] Nhìn rộng ra hơn, so sánh với các đại từ nhân xưng ngôi thứ ba HV như cừ  (âm trung cổ *ɡɨʌ), kì  hay  đều bắt đầu bằng phụ âm cuối lưỡi - và các dùng tương ứng trong tiếng Khme như គេ /kee/, គេហ៍ /kei/, គេ /kei/ ... gợi ý cho ta về nguồn gốc cách gọi *ŋi: đây là một chủ đề thú vị nhưng không nằm trong phạm vi bài viết này. Tham khảo thêm các trang 420-421, 436 cuốn "ABC Etymological Dictionary of Old Chinese" của GS Axel Schuessler, University of Hawai'i Press 2007.

[3] Thời VBL vẫn thường dùng dạng nhiệm nhặt so với nghiêm ngặt trong tiếng Việt hiện đại.

ngành, nhiệp - nghiệp, nhiêng – nghiêng, dàm - ngàm (mục nhè VBL): tuy nhiên một số đã trở thành phổ thông như ngà (~ nha ), ngắm (~ nhẫm ) … Do đó, ta có cơ sở[1] để thiết lập tương quan giữa dạng *ɲi (nhi, di thời VBL) và *ŋi hay nghỉ. 

Không những nét nghĩa nghỉ (hắn/nó) có khả năng liên hệ đến y HV, nét nghĩa nghỉ là dễ còn có thể liên hệ đến dị HV - cho thêm cơ sở để kết nối các cách dùng này.

2.3 Chữ dị/dịch  (thanh mẫu dĩ vận mẫu tịch hay chi nhập hay khứ thanh, khai khẩu tam đẳng) có các đọc theo phiên thiết

羊益切 dương ích thiết (TVGT, ĐV, QV, LT)

夷益切,音亦 di ích thiết, âm diệc (TV, VH, CV, TG 字鑑, TVi)

余亦切 dư diệc thiết (NT)

是義切 thị nghĩa thiết (TV, LT) - TV ghi nghĩa là khinh dã

以豉切 dĩ thị thiết (QV, TV, TTTH, TG 字鑑)

吕豉切 lữ thị thiết (LTCN 六書正譌)

TNAV ghi thanh mẫu ảnh vận mẫu tề vì 齊微 (khứ thanh) và nhập thanh tác khứ thanh 入聲作去

CV ghi cùng vần/nhập thanh 𥜃 (dịch *dặc *dực)

CV cũng ghi cùng vần/khứ thanh 𣙤 (dị *tứ nghị *nghĩa *nghĩ *nhị)

以智切, 音異 dĩ trí thiết, âm dị/di (CV, TVi) - CV ghi khứ thanh

延知切 diên tri thiết (CV) CV ghi bình thanh

以支切 dĩ chi thiết (TVi)

伊益切,音亦 y ích thiết, âm diệc (CTT) ...v.v...

Giọng BK bây giờ là yì so với giọng Quảng Đông ji6 jik6 yet6 và các giọng Mân Nam 客家话:[语拼音字汇] yi4 yid6 [陆丰腔] ri5 rit8 [县腔] j5 jit8 [宝安腔] ji3 | jit8 [东莞腔] ji3 jit8 [头角腔] ji5 [客英字典] ji5 jit8 [台湾四县腔] ji5 jit8 [陆丰腔] ji5 jit8 潮州话:goi7 i6 êk8 iah8, tiếng Nhật eki i và tiếng Hàn yeok i. Một dạng âm trung cổ phục nguyên của dịch là *jeh mà tiếng Việt còn bảo lưu qua dạng dễ. Dựa vào khuynh hướng 
-------------------------------  

[1] Tiếng Mường (Bi) nhí là nghỉ - nhí nhoc là nghỉ cho đỡ mệt (nhọc ~ mệt).

hầu (họng hay cuối lưỡi) hóa (xem mục 2.2 bên trên), *jeh cò tương ứng với *ŋeh hay *ŋih để cho ra dạng nghỉ như trong cách dùng "nghỉ làm" (VBL trang 526) - nghĩa là là dễ làm, chứ không phải là ngưng/không làm nữa - như cách hiểu trong tiếng Việt hiện đại.

Sau đây là bảng tóm tắt các tương đồng *ŋi  *ɲi - các âm này đều có thanh mẫu là ảnh 影 theo Trung Nguyên Âm Vận và khai khẩu tam đẳng theo Quảng Vận:

(âm BK bây giờ yí  nǐ)       nghi (hồ nghi VBL, nghi ngờ)

(âm BK bây giờ là yì)        nghỉ (dễ, VBL)

(âm BK bây giờ là yī)        nghỉ (người ấy - nói một cách lễ phép, VBL)

(âm BK bây giờ là yì)        nghì - nghĩa – ngãi

(âm BK bây giờ là yì)        nghị (hội nghị, nghị lực)

(âm BK bây giờ là nǐ)        nghĩ (để ý cách đọc 養里切 dưỡng lí thiết theo CV ~ *yih)

Ngay cả nét nghĩa ngưng/ở dưng của nghỉ (xem mục 1.2 ở trên) còn có thể liên hệ đến nghĩ bộ mộc  hay nghĩ[1] bộ chu  hàm ý dừng thuyền lại (cột hay neo thuyền/dừng lại).

Phần trên bàn về cách dùng nghỉ và chưa đi sâu vào ngữ pháp: thí dụ như câu nói (khẩu ngữ) "của cải thường thôi ~ tài sản thường ~ tài sản bình thường/thường thường" thì Truyện Kiều (thi cú) viết "Gia tư nghỉ cũng thường thường bậc trung": so với tiếng Việt vào TK 17, các câu thường lặp lại ý bằng các đoản ngữ theo sau ý chính, nhưng cũng lặp lại ý đó. Thí dụ như PGTN trang 277 "được vui vẻ thanh nhàn vô cùng đời đời lời nói chẳng hết", Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông trang 28 "trọng hơn nữa muôn vàn trùng, đời đời suy[2] chẳng đến là trọng thể nào"… Ngữ pháp tiếng Việt trong văn xuôi và thi ca về so sánh, cũng như cách dùng từ láy là một chủ đề rất thú vị nhưng không nằm trong phạm vi bài viết này.

Tóm lại, để hiểu rõ cách dùng nghỉ, như trong câu 12 Truyện Kiều, thì phải biết cách dùng này trước đó hay vào thời VBL - khi mà các nét nghĩa của nghỉ được ghi lại khá chi tiết bằng con chữ La Tinh. Khó mà thông cảm được các cách dùng như nghỉ làm, nghỉ xem, mực tàu, nhà xe, sinh thời/thì, con mày vào thời trước (TK17, 18) dựa vào tư duy và tiếng Việt hiện đại: nghỉ làm là dễ làm, nghỉ xem là dễ xem, mực tàu là dây (dụng cụ) vẽ đường thẳng, nhà xe là nhà gỗ che quan tài (xe tang), sinh thì là chết, con màycon nuôi ...v.v... Điều này cho thấy một tính chất của ngôn ngữ là thay đổi (language change/A). Hi vọng bài viết này gợi ý cho người đọc tìm hiểu sâu xa hơn về tiếng Việt, nhất là các cách dùng rất thú vị trong Truyện Kiều mà nếu không hiểu khả năng kế thừa của ngôn ngữ thì dễ sinh ra nhiều ngộ nhận - và dĩ nhiên là những tranh cãi không có hồi kết.


[1] Đọc là 魚羈切 ngư ki thiết (TVGT), 語綺切 ngữ khỉ thiết (QV, TV, VH) - giọng BK bây giờ là yǐ.

[2] Nên nhắc ở đây là các tài liệu bằng chữ quốc ngữ như VBL, PGTN hay các bản Nôm của Maiorica, mà người viết (NCT) từng đọc qua, không thấy dùng động từ nghĩ, so với các cách dùng liên hệ và thường gặp hơn như suy (cogito/L ~ nghĩ), tưởng (tưởng đến ~ nghĩ đến/VBL trang 848), ngắm, lo, lường ... Ngay cả đến thời Béhaine thì cũng chỉ dùng động từ kép như suy nghĩ, nghĩ lại ... Động từ nghĩ xuất hiện 49 lần trong Truyện Kiều so với nghỉ (đại từ nhân xưng ngôi thứ ba) xuất hiện 3 lần và động từ nghỉ (ngơi) xuất hiện 1 lần.

----------------------------------------------   

[1] Đọc là 魚羈切 ngư ki thiết (TVGT), 語綺切 ngữ khỉ thiết (QV, TV, VH) - giọng BK bây giờ là yǐ.

[2] Nên nhắc ở đây là các tài liệu bằng chữ quốc ngữ như VBL, PGTN hay các bản Nôm của Maiorica, mà người viết (NCT) từng đọc qua, không thấy dùng động từ nghĩ, so với các cách dùng liên hệ và thường gặp hơn như suy (cogito/L ~ nghĩ), tưởng (tưởng đến ~ nghĩ đến/VBL trang 848), ngắm, lo, lường ... Ngay cả đến thời Béhaine thì cũng chỉ dùng động từ kép như suy nghĩ, nghĩ lại ... Động từ nghĩ xuất hiện 49 lần trong Truyện Kiều so với nghỉ (đại từ nhân xưng ngôi thứ ba) xuất hiện 3 lần và động từ nghỉ (ngơi) xuất hiện 1 lần.


3. Tài liệu tham khảo chính

1) Pigneau de Béhaine (1772/1773) - Bá Đa Lộc Bỉ Nhu "Dictionarium Annamitico-Latinum" Dịch và giới thiệu bởi Nguyễn Khắc Xuyên, NXB Trẻ (Thành Phố HCM - 1999).

                                    (1774/Quảng Đông à Địa phận Đàng Trong tái bản năm 1837) "Thánh Giáo Yếu Lý Quốc Ngữ" 聖教要理國語 viết bằng chữ Nôm theo dạng Hỏi-Thưa. Y Doãn Ninh/Lê Bảo Tịnh phiên âm và chú giải, La Vang Tùng Thư xuất bản (Mỹ).

2) Đỗ Quang Chính (1972) “Lịch sử chữ quốc ngữ 1620-1659” NXB Đuốc Sáng (Sài Gòn).

3) Huỳnh Tịnh Của (1895/1896) "Đại Nam Quấc Âm Tự Vị" Tome I, II - Imprimerie REY, CURIOL & Cie, 4 rue d'Adran (SaiGon).

4) J. F. M. Génibrel (1898) "Dictionnaire annamite français" Imprimerie de la Mission à Tân Định (SaiGon).

                                     (1906) "Petit dictionnaire annamite français" Imprimerie de la Mission à Tân Định (SaiGon).

5) Gustave Hue (1937) "Dictionnaire annamite-chinois-français" Imprimerie Trung-hoà - NXB Khai Trí (Sài Gòn) in lại năm 1971 theo bản gốc năm 1937.

6) Nguyễn Văn Khang (Chủ biên), Bùi Chỉ, Hoàng Văn Hành (2002) "Từ điển Mường Việt" NXB Văn Hóa Dân Tộc (Hà Nội).

7) Trương Vĩnh Ký J.B.P. (1884, 1920) "Petit dictionnaire francais annamite" Imprimerie de l'union Nguyễn Văn Của (SAIGON)

                            (1867) "Abrégré de Grammaire Annamite" Imprimerie Impérial – SAIGON

8) Vương Lộc (2002) "Từ điển từ cổ" NXB Đà Nẵng - Trung Tâm Từ Điển Học (Hà Nội).

9) Giêrônimô Maiorica (thế kỷ XVII) "Mùa Ăn Chay Cả", "Thiên Chúa Thánh Mẫu - Quyển thượng", "Thiên Chúa Thánh Mẫu - Quyển trung", "Đức Chúa Giê-Su - Quyển chi cửu & Quyển chi thập", "Thiên Chúa Thánh Giáo Hối Tội Kinh", “Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông”, "Kinh Những Ngày Lễ Phục Sinh - Quyển thứ ba", “Các Thánh Truyện”. Sách lưu hành nội bộ (năm xuất bản 2002/2003, LM Nguyễn Hưng).

10) Josepho Maria Morrone (khoảng đầu TK 19) "Lexicon Cochin-sinense Latinum" đăng trong cuốn "A Dissertation on the nature and character of the Chinese system of writing" viết bởi nhà ngôn ngữ Mỹ Peter Stephen Du Ponceau (1838), in lại bởi NXB Kessinger Publishing. Kèm thêm bảng từ vựng căn bản có 333 chữ Nôm và chữ quốc ngữ với giải thích.

11) Hoàng Thị Ngọ (1999) "Chữ Nôm và tiếng Việt qua bản giải âm Phật Thuyết Đại Báo Phụ Mẫu Ân Trọng Kinh" NXB Khoa Học Xã Hội (Hà Nội).

                                    (2016) "Từ điển song ngữ Hán Việt: Chỉ nam Ngọc âm giải nghĩa" khảo cứu, phiên âm, chú giải/Hoàng Thị Ngọ - NXB Vă Học (Hà Nội).

12) Alexandre de Rhodes (1651) "Phép Giảng Tám Ngày" - Tủ Sách Đại Kết in lại từ Tinh Việt Văn Đoàn (1961 - Sài Gòn) với phần giới thiệu của tác giả Nguyễn Khắc Xuyên.

                                     (1651) “Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum” thường gọi là từ điển Việt-Bồ-La; bản dịch của Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính - NXB Khoa Học Xã Hội, Thành Phố HCM (1991).

                                    “Tường Trình về Đàng Trong 1645” bản dịch của Hồng Nhuệ, NXB Ánh Sáng Publishing, Escondido (California/Mỹ, 1994?).

                                     "Lịch sử Vương Quốc Đàng Ngoài từ 1627 tới năm 1646" dịch giả Nguyễn Khắc Xuyên - Tủ sách Đại Kết, Thành phố HCM (1994).

13) Nguyễn Ngọc San/Đinh Văn Thiện (2001) "Từ điển từ Việt cổ" NXB Văn Hóa Thông Tin (Hà Nội).

14) Paul Schneider (1992) "Dictionnaire historique des idéogrammes vietnamiens" Vol. 1 & 2 - Universite de Nice-Sophia Antipolis, Unite de Recherches Interdisciplinaires sur l'Asie du Sud Est, Madagascar et les Iles de L'Ocean Indien RIASEM.

15) Jean Louis Taberd (1838) - tên Việt là cố Từ - "Dictionarium Annamitico-Latinum" Serampore (Bengale).

                                    (1838) "Dictionarium Latino-Annamiticum completum et novo ordine dispositum" (tự điển La Tinh - Việt)

16) Nguyễn Cung Thông (2018) "Cách nói tôi, ta, tao, tớ, qua, min ... Tiếng Việt thời LM de Rhodes (phần 2)" - có thể tham khảo bài viết này trên trang này chẳng hạn https://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=24647 v.v…

17) J. S. Theurel (1877) “Dictionarum Anamitico-Latinum” LM Theurel ghi nhận LM Taberd khởi thảo và ông cố tình ‘bổ sung’ ngay trong cách giới thiệu trang đầu tự điển, (td. hàm ý các cách dùng Đàng Ngoài khác với Đàng Trong/NCT) – Ninh Phú (Đàng Ngoài).

18) Pierre-Gabriel Vallot (1898) "Dictionnaire franco-tonkinois illustré" NXB F.H. Schneider (Hà Nội).

                                          (1905) "Grammaire Annamite à l’Usage Des Français de l’Annam Et Du Tonkin" Imprimeur-Éditeur F. H. Schneider, HaNoi.

 

Phụ Trương 

(1) Trích từ tự điển Génibrel/1898 sđd)

Sau đây là bảng tóm tắt các tương đồng *ŋi*ɲi - các âm này đều có thanh mẫu là ảnh theo Trung Nguyên Âm Vận và khai khẩu tam đẳng theo Quảng Vận.

(âm BK bây giờ yí  nǐ)       nghi (hồ nghi VBL, nghi ngờ)

(âm BK bây giờ là yì)        nghỉ (dễ, VBL)

(âm BK bây giờ là yī)        nghỉ (người ấy - nói một cách lễ phép, VBL) so với âm y HV

(âm BK bây giờ là yì)        nghì - nghĩa – ngãi (lễ nghĩa)

(âm BK bây giờ là yì)        nghị (hội nghị, nghị lực)

(âm BK bây giờ là nǐ)        nghĩ (suy nghĩ, để âm  養里切 dưỡng lí thiết theo CV ~ *jih

hay (âm BK là yǐ)          nghĩ (dừng/neo thuyền)

(âm BK bây giờ là yǐ)        nghị hay nghĩ - (trang trọng - theo CV ~ *jih) (1)

(âm BK bây giờ là nǐ)        nghị hay (mầu mỡ/cây cỏ - theo CV ~ *jih) (1)

 

 

(2) Trích từ trang洪武正韻牋 (Hồng Vũ Chánh Vận Tiên) https://ytenx.org/zim?dzih=%E6%98%93&dzyen=1&jtkb=1&jtkd=1&jtdt=1&jtgt=1 

洪武正韻牋 (Hồng Vũ Chánh Vận Tiên)

Để ý hai dạng âm cổ phục nguyên là (ŋ)ji˨˦ (so với dạng nghỉ trong VBL) và jiʔ(k)˩ (so với dạng dịch HV) rất khác với dạng  (âm BK bây giờ theo pinyin).

 

 

                                                                       hết


Powered by Froala Editor