3 năm trước
Tiếp nối cuộc tọa đàm về trường ca "Cuộc chiến mười ngàn ngày"
Bài viết của Lê Ngọc Văn là minh chứng lịch sử liên quan đến nhiều thế hệ. Nó là câu chuyện tình yêu và cũng là một biểu tượng của văn hóa yêu nước...
Powered by Froala Editor
Sau khi BBT đăng bài viết của Lê Ngọc Văn, nhiều bạn đọc đã rất cảm động khi được chứng kiến một tình yêu đầy chất lãng mạn, nhưng cũng đầy thử thách trước hiện thực nghiệt ngã của cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Sự có mặt cùng một lúc của 3 cựu sinh viên hai khoa Văn-Sử Đại học Tổng hợp Hà Nội thời ấy tại chiến trường trung Trung bộ cho thấy cuộc chiến tranh đang ở trong giai đoạn khốc liệt biết nhường nào. Có biết bao cuộc chia tay đầy nước mắt! Có biết bao ước mơ đang mở ra phải tạm thời gác lạ! Không phải chỉ riêng các sinh viên hai khoa Văn – Sử, mà là sinh viên toàn trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, cũng như sinh viên, học sinh của tất các trường Đại học, các trường phổ thông Cấp 3 (nay là Trung học Phổ thông) trên cả nước đã náo nức lên đường theo tiếng gọi của tiền phương. Để lại phía sau lưng họ là hình ảnh những người thầy, người bạn thân thương, những người yêu đang còn dang dở bởi các cuộc hẹn hò…Họ đã vô tư cống hiến cả những năm tháng thanh xuân nhất của cuộc đời cho cuộc chiến tranh giữ nước.
Trong một cuộc chuyện trò với BBT, nhà thơ Hữu Đạt đã bộc lộ rằng, trong trường ca, ông đã dành riêng một chương viết về mái trường đại học. Đây là nơi ông gửi gấm bao khát vọng từ buổi thanh niên. Tuy nhiên, âm hưởng của nó là cái âm hưởng chung của học đường, mà hiện thực phản ánh của trường ca này gồm cả các cuộc chia tay khi ông còn đang học lớp 10A tại trường cấp 3 Quảng Oai, Sơn Tây (nay thuộc Ba Vì Hà Nội). Vào thời điểm ấy, tại sân vận động Quảng Oai, tất cả học sinh lớp 10A của ông do thầy giáo dạy sử là Phùng Quang Phiệt làm chủ nhiệm đã tiễn đưa các bạn trong lớp lên đường ra trận. Đó là các bạn Đào Đại Hướng, Trần Mạnh Tưởng, Nguyễn Công Bằng, Nguyễn Văn Tình, Trần Đình Cử, Nguyễn Duy Bùi, Nguyễn Văn Bảy… Rồi trước đấy, ngay từ năm học lớp 8, chính nhà thơ và các bạn cùng lớp đã tiễn đưa thầy chủ nhiệm là Nguyễn Tấn Cường, bạn Phùng Công Huy… thẳng tiến vào Nam.
Khi trở thành sinh viên khoa Ngữ Văn, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, trong những năm sơ tán, rồi trở về Hà Nội, sống bên cạnh những tòa nhà đổ sập vì chiến tranh, nhà thơ lại tiếp tục chứng kiến bao cuộc chia ly đầy nước mắt nữa. Trong những người bạn của nhà thơ ra đi, có rất nhiều người đã mãi mãi để lại tuổi xanh của mình nơi chiến trường như Nguyễn Văn Tình (bạn cấp 3), Nguyễn Văn Thụy (bạn đại học)…
Tất cả những cảm xúc mà nhà thơ đã trải nghiệm dọc tuổi thanh xuân được tích tụ, dồn nén qua bao năm tháng. Mãi đến năm 2010, khi tác giả là chuyên gia tại Đại học Ngoại Ngữ Thượng Hải - Trung Quốc, ông mới có những thời gian để suy ngẫm và đúc kết lại thành những dòng thơ vừa trữ tình vừa hào sảng kể lại một thời oanh liệt.
Để đáp ứng yêu cầu của bạn đọc, trong số báo này, BBT chúng tôi xin trích lại chương thứ bảy của trường ca “Cuộc chiến mười ngàn ngày”. Đây là chương tác giả Hữu Đạt muốn kính cẩn dâng lên các hương hồn liệt sĩ và gửi tặng các cựu chiến binh từng bỏ dở học đường tham dự cuộc chiến chinh vĩ đại của dân tộc. Đặc biệt, đó là lời tâm tình gửi đến các bạn bè “một thuở” ở cấp 3 Quảng Oai, các cựu sinh viên Văn - Sử, cũng như nữ cựu chiến binh Đỗ Thị Hồng Xoan – người trong cuộc của “Chuyện tình thời chinh chiến”.
Trước khi đọc chương bảy của trường ca, trân trọng kính mới bạn đọc ghé qua mục “Chân dung các nhà khoa học” của trang wensite này để gặp gỡ Nhà giáo Ưu tú Lê Hồng Sâm như đã hẹn từ số báo trước.
Chương bảy
Mái trường Đại học
Thời ta đến Mễ Trì xanh màu lúa
những ao hồ giăng khắp lối ta đi
những chiến tích đạn bom còn hằn lên vết đất
mưa nhiều đêm trắng cả lối ta về
Lớp học chung hai ngành Văn Ngữ
một quầy ăn bát đũa xếp từng khu
Văn với Sử như là bè bạn
lối ta đi bạn cũng đi cùng
Tuổi trong trắng như trang giấy mới
mỗi ngày qua hai buổi đến trường
nghe giáo sư thuyết trình trên bục giảng
hồn đứa nào cũng ướt đẫm văn chương
Căn phòng ở kê toàn giường sắt cũ
bạn nằm giường trên ta ở dưới này
lương một tháng mười tám ngàn đồng bạc
nhưng tâm hồn ai cũng ngát hương bay
Nào những A Q , nào ông Lỗ Tấn
nào Đôtxxtoievxki, Sê khov với Mai a
đây cụ Lev - “Chiến tranh và hòa bình” không cũ
máu vẫn tuôn trên nửa nước non nhà
Lũ sinh viên miệt mài nghe thầy giảng
mắt ngẩn ngơ nhìn thành phố trong hoa
mỗi khi Tết hoa đào lại nở
náo nức làm sao được nghỉ Tết về nhà
Một bữa liên hoan cháy dạ dày lép kẹp
chiếc bánh chưng xanh tiêu chuẩn mỗi người
không kịp để dành lúc lên tàu chống đói
ta mở ra ăn tiễn bạn về xuôi
(hình đồng hồ cát)
Lớp tuy nhỏ nhưng bạn bầu tứ chiếng
kẻ miền Nam, miền Bắc miền Trung
kẻ ở núi cao, người nơi miền biển
những về đây chỉ một chữ “cùng”
Cùng chí hướng, cùng cả đời lam lũ
cùng cái nghèo theo suốt cả bốn năm
cùng đắp chung chăn mỗi đêm giá lạnh
cùng câu chuyện riêng tư trước mỗi tối đi nằm
cùng thao thức trước mỗi đời kiếp bạc
cùng ưu buồn trước các cuộc chia ly
cùng vui sướng reo lên khi thấy bạn
Nỗi nhớ xa nhau sau một tháng nghỉ hè
Ta hát mãi trong những chiều ký túc
lá vàng rơi lắc rắc khắp lối đi
tiếng gõ bát chờ cơm chen tiếng hát
một thời yêu nhau…trong xanh lúa đồng quê
Mễ Trì ơi! Nay còn đâu thuở ấy
hàng cây xanh trong vắt nước hồ
những đêm trăng buồn nghe cá quẫy
vũng nao lòng cả những răng ô rô
Không còn nữa cánh đồng hoang hoải nắng
mênh mông xa những ụ pháo hoang tàn
thời chinh chiến phố găm đầy vết đạn
bom thù rơi, nhà bếp sập, gãy tan
Một khóa học phải mấy lần sơ tán
mấy cuộc chia tay tiễn bạn lên đường
bao ấp ủ còn vương trên giáo án
mắt nhìn nhau chan chứa tình thương
Không ai nghĩ tuổi đang còn cắp sách
lại ôm ngang cây súng giữa trận tiền
dù mấy vạn những trang sách viết
hết làm sao những người lính không tên
(hình nút chai)
Thương lắm lắm, những bạn bè thuở ấy
trong những lớp ra đi có những bạn không về
đời trai trẻ ngã vào lòng trận mạc
chết sáng trong như ánh sao khuê
Cho đất nước bình yên
cho bao nhiêu đôi lứa
học và yêu
theo phong cách
sinh viên
(hình cái chai)
Bao năm tháng qua đi
bao lớp người nối tiếp
một bài ca hát mãi chưa thôi
vầng trăng tiễn đưa, nửa đi nửa ở
cuộc chiến trinh dằng dặc khôn nguôi
Trường với lớp về nơi sơ tán cũ
bạn khoác ba lô rong ruổi phía chân trời
nơi tiếng súng đang nã vào mặt trận
nơi khói bom mù mịt pháo đài bay
nơi xích sắt xe tăng nghiền nát đất
Bạn làm thơ trong hỏa lực pháo bầy
mỗi trang viết bạn gửi về Hà Nội
người ở nhà đọc như đắm như say
rừng Trường Sơn hôm nào bốc khói
những Con ma, Thần Sấm rơi đầy
hai nửa nước mình đầy vết đạn
nén đau thương gắng đừng thành người
Tiền tuyến gọi hậu phương xốc tới
dẫu biết rằng máu chảy đầu rơi
Bao người mẹ mất con
bao trẻ thơ khóc mẹ
biết bao người vợ trẻ
thức trắng đêm
trong nỗi nhớ chờ chồng
Ông hành quân
Cha hành quân
Cháu cũng hành quân
Đường tít tắp nối dài theo chiến dịch
rừng bốc cháy như là trong cổ tích
khắp lối bom rơi
khắp lối bom đào
Những thanh nữ xung phong
đứng chắn thành rào
làm hàng cọc hoa tiêu
cho đoàn xe vượt tuyến
Cả đất nước đằm mình trong chiến trận
đến bữa cơm ăn cũng gián đoạn không thành
trang giấy học trò nhàu nát trộn máu tanh
lớp sơ tán lật nghiêng
bom tọa độ
Bàn ghế cháy thành than bay trong gió
đề văn thầy ra, bạn viết vội chưa thành
dang dở quá, trang sử nào xếp lại
những mối tình vừa chớm nở hôm qua
nay đã lấy khăn tay thêu vội
những vụng dại ban đầu
giấu trong những nụ hoa
Sân trường cũ năm nao còn in mãi
bóng những người lính chiến tuổi đôi mươi
dìu dặt cầm tay ai
trong nước mắt
câu tiễn đưa như tím cả chân trời
Lớp bỗng cứ thưa dần sau mỗi đợt
lần tuyển quân nào cũng phải tiễn bạn đi
rừng Thái Nguyên bao chiều u uẩn khóc
chiến trường xa mộ bạn đã xanh rì
Vẫn nhớ mãi mùa mưa năm tháng ấy
qua Suối Đôi thầy chủ nhiệm cưỡi trâu
vượt dốc dài Hoàng Hữu Yên rơi kính (*)
nắng đến như cháy cả tóc trên đầu
Miệng vẫn hát những bài ca Đất nước
bụng chỉ toàn mì luộc trộn với rau
cùng bạn sẻ chia bát canh toàn quốc(* *)
mai sớm vượt qua những núi cùng đèo
Đi chặt nứa rừng dựng nhà, dựng lớp
có gì đẹp bằng mắt bạn trong veo
có gì đẹp bằng nụ cười rạng rỡ
của người yêu dưới vành mũ tai bèo
Bao đôi lứa yêu nhau thời chinh chiến
đã buồn khi thư lạc lối không về
nhưng vẫn khắc vào tim mình hai chữ
dù đi đâu vẫn giữ trọn câu thề.
người ở lại trang giáo trình vẫn mở
người ra đi chân đạp đá, gai rừng
cùng đất nước viết thêm nhiều trang sử
rất oai hùng và cũng rất đau thương
(hình ngọn đuốc)
Thời ta đến
Mễ Trì xanh màu lúa
lửa chiến chinh cháy rực
khắp cánh đồng
treo ảm đạm
vầng trăng non
góa bụa
Tiếng
Thần
Sấm (***)
gầm
rách nát
những khoảng không
(*) Câu truyền miệng của SV khoa Ngữ văn: vượt dốc dài Hoàng Hữu Yên rơi kính/ Qua Suối Đôi Hoàng Xuân Nhị cưới trâu.
(*) Cụm từ sinh viên thời đó hay dùng chỉ loại canh rất ít rau chỉ toàn nước
(***) Loại máy bay ném bom F105 của Mỹ.
(hình tháp xuôi)
Đêm
Giấc ngủ
chập chờn
cơn ác mộng
giáo án lật sang trang
ứớt đẫm tấm lưng thầy
bao con chữ ngổn ngang rơi trên lớp
giờ học cuối cùng anh nhớ mãi từ đây
tiền tuyến gọi cuộc hành quân tiếp bước
Anh (hình mũi tên)
xung phong
vào trận cuối cùng này
đêm lửa trại cả trường vui náo nức
trống dập dồn theo bóng lá cờ bay
Không có gì quí hơn Tự do cho Tổ quốc
chiếc gậy Trường Sơn thành bạn mới những ngày
vượt núi băng đèo
tiến về phía trước
không quản hy sinh
gian lao khó nhọc
chiếc ba lô
trĩu nặng
tấm thân gầy
mưa gió
Trường Sơn
không át nổi
tấm lòng
yêu nước
đến mê say
Như tất cả bao sinh viên trường khác
anh đi trong đội ngũ điệp trùng
vai khoác ba lô tay mang súng đạn
ấy bài thơ viết dở giắt bên lưng
Thơ anh viết nhuốm rất nhiều lửa khói
vẫn không quên những nỗi nhớ bạn bè
mỗi cuộc hành quân, một trang thơ viết vội
hành trang suốt đời người lính chẳng có chi
Chỉ có những ước mơ
xanh như màu biển cả
và tình thương vô tận
với quê nhà
anh không khóc
sao trang thư lại khóc
để người ở lại buồn
hóa đá giữa mưa sa?
Thời ta đến Mễ trì xanh màu lúa
tình yêu anh chớm nở lúc đông tàn
có lẽ nào bạn tôi thành góa bụa
ngay cái thời tóc vẫn còn xanh?
Đèn vẫn sáng trong những đêm họp lớp
giọng thầy đọc run run
thư tiền tuyến
gửi về
Lớp
im lặng
dõi theo từng nét chữ
Bài học lịch sử buồn
trong những phút chia ly
Lá thư nhỏ
trang giấy đen gấp vội
đã đi qua bao chặng
vượt bom thù
Bom làm rách
nửa phong bì ám khói
vẫn rực màu khát vọng
mùa thu
vẫn chứa chất
ngàn điều
còn chưa nói
vẫn tươi nguyên
những lời hẹn
câu thề
Nơi tiền tuyến
anh đang xốc tới
chốn quê nhà
trăng theo bước anh đi
Lớp không học từng tuần theo lịch cũ
mỗi lối trường xưa địch oanh kích nhiều lần
đêm sơ tán bạn nhớ anh không ngủ
lớp vắng dần sau mỗi đợt tuyển quân
Ngày ta mới nhập trường
hơn sáu mươi sinh viên một lớp
nay nhìn quanh chỉ thấy bóng chục người
cảnh xao xác của một thời đánh giặc
những nỗi buồn dằng dặc khôn nguôi
Một lần nữa lại một người ngã xuống
lớp thêm một người ở tiền tuyến hy sinh
giờ truy điệu cờ rủ ngay trước lán
ai cũng đau như mất ở lòng mình
một chút tuổi xuân
đi như
không về nữa
một chút tình yêu
đắm say
trong
dang dở
một chút
ước mơ
vội vã
chửa
thành hình (hình cây thánh giá)
Ai cũng như thấy mất ở lòng mình
cái gì đó
lớn lao
to tát quá
Phút
im lặng
bao
bạn bè
nghẹn thở
khắc
một
chữ
“buồn”
nhói
buốt
ở
trong
tim
Thời ta đến Mễ Trì lúa màu xanh
Powered by Froala Editor