datetime.u_day
TANG LỄ CỦA NGƯỜI THIÊN CHÚA GIÁO Hữu Đạt
Powered by Froala Editor
TANG LỄ CỦA NGƯỜI THIÊN CHÚA GIÁO
Hữu Đạt
Tôi lớn lên trong môi trường của đạo Phật, tuy không theo đạo nhưng chịu ảnh hưởng không nhỏ nhiều quan niệm nhân sinh mà Đức Phật tổ tuyên dạy. Mẹ tôi cũng như rất nhiều cụ già khác trong làng luôn ái mộ đạo Phật và coi chùa chiền là nơi sinh hoạt văn hóa không thể thiếu. Cụ tổ nhà tôi là người đứng ra bỏ tiền của với sự góp sức của nhân dân xây dựng nên ngôi chùa của làng. Sau Đổi mới, mẹ tôi là một trong các thành viên tích cực nhất vận động, quyên góp để tái thiết chùa sau gần nửa thế kỉ bị tàn phá. Bà là người được bầu làm Trường chùa đầu tiên, một chức danh chỉ đem đến sự khó nhọc và cống hiến, nhưng bà rất vui vì đó là phần thưởng to lớn về tinh thần. Nhờ có ngôi chùa được tái thiết, làng xóm trở nên vui hơn. Mọi công việc trong thôn xóm đã bắt đầu có sự tham gia tích cực của các cụ vãi, nhất là các công việc tang lễ, tiễn đưa người quá cố về cõi vĩnh hằng.
Nhờ công tác nghiên cứu và giảng dạy nhân văn, cũng như hoàn cảnh cá nhân, tôi dần quen với một tôn giáo mà từ nhỏ vốn xa lạ với mình, đó là Thiên Chúa giáo. Tôi nhận ra rằng, trước đây do cách thức giáo dục ở nhà trường và sự tuyên truyền một phía, phần lớn người theo đạo Phật hoặc người theo đạo dân gian (thờ cúng ông bà tổ tiên) hiểu rất sai về tôn giáo này. Họ gán cho người Thiên Chúa giáo đủ thứ, nào là không thờ cúng ông bà tổ tiên, nào là khi chết không làm đám ma, khi ăn cơm không mời… Nhưng hóa ra toàn là sai cả. Người Thiên Chúa giáo vẫn thờ ông bà tổ tiên, giống như người theo đạo Phật chính thống là chỉ cúng hương hoa, bánh trái, hoa quả mà không cùng đồ mặn. Thực ra, tục cúng đồ mặn cũng không phải là của người theo đạo Phật mà là của người theo đạo dân gian (gọi là bên Lương). Còn các nhà chùa, các món dùng trong lễ hội, tiệc tùng như giò, chả… đều làm giả từ thực vật nên tuy giống đồ mặn nhưng vẫn gọi là ăn chay. Như vậy, xét về đức tin, cả người Thiên Chúa giáo và người theo đạo Phật đều quan niệm, người ta khi chết đi thì về cõi linh thiêng nên không dùng đồ ăn của người trần tục nữa. Những người theo tín ngưỡng dân gian vốn quan niệm “sống sao chết vậy” nên mới cúng bằng các món ăn mặn mà người sống vẫn thường dùng.
Trong cuộc đời mỗi con người có hai việc quan trọng nhất là hiếu và hỷ. Người già cả khi mất, con cái làm đám ma, người ta nói theo khiêm ngữ là đám hiếu. Đó là ngày con cái làm lễ tiễn cha mẹ về cõi vĩnh hằng. Đây là dịp con cái báo hiếu bố mẹ lần cuối cùng nên từ xưa đó là ngày lễ được tổ chức trọng thể. Vào ngày đó, bà con nội ngoại, quan khách xa gần đều đến phúng viếng. Về cách thức, các khâu tổ chức của người Thiên Chúa giáo và người bên Lương cơ bản giống nhau và đều có sự hòa trộn giữa bản sắc văn hóa truyền thống của người Việt với tôn giáo. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại thì nghi thức tang lễ của người Thiên Chúa giáo vẫn giữ được nét thuần khiết truyền thống, trong khi tang lễ của người bên Lương lại bị tác động ít nhiều của cơ chế thị trường.

Chẳng hạn, trước đây mỗi khi có tang, người bên Lương cũng như bên giáo đều mời phường bát âm (nay gọi là ban nhạc lễ) đến thực hiện các nghi lễ tiễn đưa người chết. Sau khi công việc hoàn tất, gia chủ tự biện lễ bồi dưỡng theo tâm mà ban nhạc không có ý kiến gì. Khi đã hành xử theo tâm thì bên nào bên nấy đều vui vẻ cả.
Hiện nay, mọi thứ không còn theo lệ cũ. Các ban nhạc sau khi hoàn tất công việc sẽ là người định giá tiền công. Sự định giá này tất nhiên không có sự mà cả vì công việc hiếu lễ được hai bên ngầm hiểu là sự thiêng liêng chứ không phải là công việc lao động thông thường. Nhìn chung, các ban nhạc cũng lấy công vừa phải. Tuy nhiên, sự phức tạp lại diễn ra lại ở “đêm văn nghệ”. Theo quan niệm của người Việt và nhiều dân tộc châu Á “Sống là gửi thác là về” nên việc ra đi của người quá cố chỉ là rời cõi tạm để về nơi vĩnh cửu. Có câu cửa miệng “Trẻ làm ma, già làm hội”. Cho nên, buổi tối cuối cùng trước khi đưa quan tài ra đồng, ban nhạc phải làm nhiều trò cho vui vẻ. Ngoài các bài khóc thay con cháu và người thân của vong nhân, còn có tiết mục chèo đò đưa linh hồn người quá cố về Tây trúc. Khi còn chế độ bao cấp, mỗi xã đều có ban nhạc hiếu nên lao động của ban nhạc được tính thành công điểm. Nhưng từ ngày chuyển sang kinh tế thị trường, các ban nhạc chuyển sang hoạt động tự do. Cơ chế này phát sinh nhiều vấn đề mới. Có nhiều gia đình trở nên rất vất vả vì tất cả mọi người đều bị điểm danh, từ con trai, con gái, con dâu, con rể rồi đến các cháu nội ngoại xa gần, anh em chú bác… đều được ban nhạc chủ động gọi tên. Mỗi lần bị xướng danh từng người phải ra “trả tiền đò” để thuyền đưa người quá cố về Tây trúc được thuận tiện. Đây là thủ tục có sự hòa trộn giữa đời thường và màu sắc tôn giáo, vừa linh thiêng vừa mang tính dân dã (chủ yếu là ở người theo đạo Phật). Nếu nó chỉ được giải quyết theo tinh thần tự nguyện như trước thì chắc gia đình nào cũng vui vẻ. Tuy nhiên, cũng có nơi, có lúc, do cách triển khai nghi thức của ban nhạc nó lại trở thành một yêu cầu bắt buộc với con cháu, thân nhân của tang chủ khiến nảy sinh những bức xúc trong tâm tư. Ví dụ, ban nhạc lễ tạo ra nhiều tình huống: Nào là, đêm hôm khuya khoắt, ông lão lái đò đã đi ngủ. Nào là phải hôm sóng to gió lớn, thuyền khó đi. Nào là mái chèo bị gãy phải có mái chèo mới… Tất cả các sự cố đó đều chỉ được khắc phục bằng tiền nên con cháu phải cùng hợp lục giải quyết. Thành ra, nhiều người được gọi tên nhiều lần bỗng cảm thấy bị ức chế. Không mở ví thì sợ mang tiếng, mà mở ví liên tục thì cảm thấy mình đang bị “cái vô lí” trói buộc. Khổ nhất là những người làm nông và các cháu học sinh. Họ vốn ít hoặc không có tiền, nhưng vẫn bị gọi nhiều lần nên có người phải vay mượn ngay trong lúc dự tang…
Cũng là trở về cõi vĩnh hằng nhưng linh hồn người bên Lương muốn đến được Tây trúc lại phải trải qua con đường quá nhiều thác ghềnh mà mỗi bước đi đều phải rải ra bằng tiền của con cháu họ hàng thì linh hồn người Công giáo đến với nước Chúa (trở về nhà của Cha) lại giản tiện và không bị tác động bởi cơ chế thị trường. Có điều đó là do, tất cả các thủ tục để linh hồn người chết về chốn Thiên đàng của người Thiên Chúa giáo đều được làm tại nhà thờ với lời đọc kinh của Cha xứ cùng lời cầu nguyện của các con chiên trong họ Đạo. Tại buổi lễ, cũng như đêm trước ngày an táng, ban nhạc lễ chỉ làm công việc tấu các bản nhạc có sẵn ứng với các nghi thức gắn với nội dung của mỗi đoạn kinh. Nhờ thế, tang chủ không phải chi thêm các khoản tiền phát sinh, đôi khi quá lớn với tầm kinh tế của một số gia đình.

Con đường đưa linh cữu từ nhà ra đồng, thời bao cấp cũng rất đơn giản. Nếu là đường xa, có một lần nghỉ giữa đường để người khiêng kiệu được nghỉ. Thời gian đó, ban tổ chức đi mời trẩu nước mọi người mà không có tế lễ. Khi kinh tế thị trường mở ra, thời gian nghỉ cũng là thời gian ban nhạc tấu lên các bài tế (chủ yếu là kèn). Đây cũng là lúc con cháu và người thân gia đình tang chủ bày tỏ tình cảm bằng cách thướng tiền vào một cái khay. Mục này được thực hiện theo tự nguyện nên không tạo ra bức xúc nào cho các cá nhân. Tuy nhiên, ngoài thủ tục này, người bên Lương còn có một thủ tục quan trọng, nảy sinh sau thời bao cấp. Đó là mục bắc cầu cho linh hồn người chết. Trong trường hợp hỏa táng thì cầu được bắc ngay đầu ngõ khi mới đưa quan tài ra khỏi nhà. Nếu địa táng thì cầu được bắc ngay trước cửa mộ. Cầu là một băng vải rộng khoảng một mét, dài trên dưới chục mét. Dọc hai bên có các cụ vãi cầm tay đỡ lên. Theo lệ thường, khi các vãi cất tiếng đọc kinh được một lúc thì vợ con cháu chắt, bà con họ hàng đều bước lên rải tiền cầu. Ít nhất, tiền rải cầu cũng phải có hai chặng ở điểm đầu và điểm cuối. Có người hăng hái hơn thì rải ra làm ba hay 5 chặng. Lúc đầu, tiền rải chỉ là tiền nhỏ, nhưng dần dà có một số gia đình khá giả muốn biểu thị vẻ mặt với dân làng liền dùng các loại tiền to. Vô hình trung, họ đã tạo ra một bảng giá mới và tạo đà tăng dần theo cơn sóng thị trường, rồi hình thành thứ luật bất thành văn. Hiện nay, ở một vài địa phương, tiền rải cầu đã lên rất cao. Riêng chặng đầu, con trai và con dâu phải đặt mỗi người 500 ngàn mới tránh bị tiếng chê cười. Nếu đặt ít hơn thì bà con xóm giềng dè bỉu, nên dù khó khăn mấy họ cũng phải hết sức cố gắng. Số tiền thu được đều xung công để tu bổ chùa. Tất cả các vãi tham giá công việc tang lễ đều làm việc vô tư, không nhận bất cứ một đồng công xá nào, cũng không ở lại ăn cơm với tang chủ, mặc cho nhiều lúc mưa nắng rất vất vả. Họ chỉ uống bát nước vối và ăn miếng trầu làm vui. Họ là tấm gương cho tinh thần vì cộng đồng, vì tình làng nghĩa xóm. Ở các vùng thôn quê, hình ảnh các vãi mặc áo dài nâu cầm phướn và cờ nhà Phật dẫn đầu các đám tang đã trở thành một biểu tượng đẹp của nghi lễ tiễn đưa người quá cố về cõi Niết bàn.
Ở thành phố, nhiều gia đình có tang không dùng ban nhạc sống mà dùng nhạc chín ( phát qua băng). Người ở quê ra dự cảm thấy có sự tẻ nhạt. Nhưng đó là cách quan niệm khác nhau. Ở thời hiện đại, nhiều tục lệ cũ đang được thay đổi. Chẳng hạn, trước đây, khi bố mẹ qua đời, con trai phải đội vành rơm, mặc áo xô, chống gậy. Nhưng hiện nay, nhiều thôn xã ở phía Bắc Hà Nội, chính quyền địa phương đã ban hành nhiều nghị quyết Đổi mới như bỏ tục lệ chống gậy, đội vành rơm, thắt dây chuối ngang lưng; thay áo xô bằng quần áo đen. Mặc dù cho người dân tự nguyện lựa chọn, nhưng chính quyền và Mặt trận Tổ quốc chỉ có mặt khi các gia đình thực hiện nếp sống văn hóa mới. Với một chính sách mở như thế, bà con rất hân hoan và nhận ra nhiều hủ tục xưa cần thay đổi để đi theo chỉ đạo của chính quyền.
Có thể nói, các cấp quản lí có vai trò rất quan trọng cho định hướng chuyển cũ thành mới. Thôn Phượng Đồng, Phường Chương Mỹ Hà Nội là một ví dụ. Cách đây gần chục năm, trong các đám tang người ta vẫn dùng ban nhạc lễ là phường bát âm. Theo gợi ý của ông Lê Văn Tuế, vị trưởng thôn là ông Lê Văn Thuần đã tích cực thành lập ban nhạc lễ mới là đội kèn Tây. Đội có 10 người, toàn là những người nhiệt tình và trách nhiệm. Toàn đội tự bảo ban luyện tập để tạo ra ban nhạc lễ phục vụ nhu cầu của bà con xứ đạo và hỗ trợ các địa phương khác. Giờ đây, các đám tang trong thôn không thấy phường bát âm như trước. Trong các buổi tang lễ, người ta không còn nghe thấy tiếng reo rắt, bi ai của tiếng sáo, tiếng nhị, tiếng kèn tàu và tiếng nước nở của đàn bầu. Thay vào đó là tiếng kèn đồng vừa hoành tráng, vừa trang trọng. Bản nhạc nền được sử dụng trong các đám tang là bản nhạc “Hồn tử si” vốn được dùng trong các buổi lễ tưởng niệm liệt sĩ hoặc các nhân vật quan yếu của quốc gia. Đặc biệt, trong buổi lễ an táng tổ chức tại nhà thờ, hình ảnh của ban nhạc đồng phục màu trắng giống như đội tiêu binh trong Quân đội đã tạo ra không khí trang nghiêm. Cùng lúc, tiếng kèn đồng lại có khả năng hòa phối khá tuyệt vời với âm điệu trong giọng nói của Đức cha (hay cha xứ) khi đọc Thánh kinh. Sự trang trọng trong nghi lễ, sự thành kính của cha và các con chiên đã tạo ra bầu không khí thiêng liêng. Sau mỗi đoạn kinh vừa dứt, các bài hát đồng ca vang lên nghe vừa du dương vừa huyền hoặc, tạo ra niềm tiếc thương da diết nhưng không bi lụy mà được xoa dịu bởi lời Chúa nói về qui luật hồi sinh để sống “đời đời cùng Cha”, nơi ngôi nhà của Chúa luôn mở rộng cảnh cửa đón các linh hồn trở về sau khi đã trải qua một kiếp sống gian truân nơi cõi tạm. Bất cứ ai tham dự những buổi như thế đều thấy kính yêu và rất gần với Chúa.
Người Việt Nam dù có đức tin với tôn giáo nào thì khi tổ chức tang lễ cho người quá cố vẫn mang đậm đà dấu ấn của bản sắc văn hóa dân tộc. Đó là tình thần cộng đồng và đề cao giá trị nhân văn. Mọi nhận thức và Đổi mới trong nghi thức và thủ tục không hề làm giảm đi đức tin vào tôn giáo, trái lại càng làm cho tôn giáo gần gũi và gắn bó với cuộc sống và phát huy sức mạnh to lớn của nó.
Powered by Froala Editor