Admin

datetime.u_hour

Cấu trúc làng và sự rạn vỡ

bài đã đăng trên Câu lạc bộ Văn chương ( Hội Nhà văn VN)

Powered by Froala Editor

CẤU TRÚC LÀNG VÀ SỰ RẠN VỠ
 
           HỮU ĐẠT
dat_nguyen-huu_ngon-ngu
 
Làng là một địa danh gắn với tâm thức của người Việt Nam. Trong trường ca “Cuộc chiến mười ngàn ngày” (Nxb CA ND 2015, NXB Hội Nhà văn, 2021), tôi từng viết: “Không làng thì không có nước/ Nước mà đau làng cũng đau cùng”. Sự gắn bó máu thịt của làng và nước chính là đặc trưng văn hóa của người Việt Nam. Đó là tương quan sống còn. Nhờ hiểu sâu sắc mối tương quan ấy mà thời phong kiến xưa kia hà khắc là vậy, người cai trị lớn nhất là vua cũng phải nể và chấp nhận “phép vua, thua lệ làng”. Câu này có nhiều cách hiểu, song hiểu theo đúng tinh thần tích cực của nó thì ở đây, làng được hiểu là một cộng đồng. Cộng đồng này là bộ phận của cộng đồng lớn là dân tộc. Ở góc nhìn văn hóa: xã, huyện tỉnh, chỉ là các đơn vị hành chính nên không có chuyện “phép vua thua lệ xã, lệ huyện…”
Làng Việt ở đồng bằng xưa thường được bao bọc bởi lũy tre xung quanh, chỉ có một hay hai cổng ra vào. Có những làng được xây dựng kiên cố, ngoài là lũy tre, trong là ao hoặc hào. Đây là cách tự vệ chống sự xâm nhập của trộm cướp. Thấy rõ lợi thế này, thời kháng chiến Chính phủ phát động phong trào “Làng kháng chiến” để thực hiện kháng chiến lâu dài. Thời đó, phía Bắc thủ đô Hà Nội có một làng nổi tiếng có tên là “Vật Lại” (nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh lên chúc Tết năm 1969 và trồng cây đa kỉ niệm trước khi Người ra đi). Làng này khi kháng chiến chống Pháp bùng nổ chỉ có 200 tay súng du kích, nhưng quân Pháp nhiều lần đánh chiếm làng không được. Sau mấy lần thất bại, lần thứ 5 chúng phải dùng cả ba lực lượng: bộ binh, xe tăng và máy bay quần thảo ba ngày đêm mới tiến được vào làng. Nhìn từ cổ chí kim, về quân sự, mỗi làng có giá trị như một pháo đài.
Cho nên, nói đến Việt Nam, văn hóa làng là yếu tố bền vững, dường như rất khó hủy diệt. Chủ nghĩa yêu nước cũng bắt nguồn từ tình yêu làng. Trong âm nhạc, có những bài hát thể hiện điều đó: “Làng tôi xanh bóng tre, tiếng chuông nhà thờ ngân…”. Trong tâm thức dân gian, từ ca dao đến các điệu hát, làng gắn liền với các hình ảnh quen thuộc “gốc đa làng”. Cây đa, bến nước, sân đình… tồn tại trong máu huyết mỗi người từ lúc chưa lọt lòng với điệu hát ru nôi của bà, của mẹ. Đó cũng là nơi diễn ra những cuộc hẹn hò lứa đôi, những vũ hội tưng bừng vào mỗi dịp xuân về.
Cuộc cách mạng cải cách ruộng đất bùng lên, với sự cố vấn sát sao của nước ngoài, văn hóa làng bị rạn vỡ lần thứ nhất. Để đáp ứng yêu cầu của các ngài Đội, một cuộc đấu tố vang dội bắt đầu xảy ra ở nhiều làng quê. Người ta bắt đầu nhìn nhau bằng con mắt của kẻ thù giai cấp. Tình làng nghĩa xóm lúc này là cái cha ông gìn giữ ngàn đời nay tan ra theo tiếng kẻng, tiếng mõ dồn dập và những lời gào thét, oán hờn. Không chỉ người cùng làng mà anh em, họ mạc, thậm chí bố con cũng bị cuốn vào dòng xoáy đấu tố của thời cuộc. Đình chùa bị phá bỏ, các gốc đa làng ở nhiều nơi bị đánh bật lên để cưa, xẻ thành các cối xe lăn (xe lăn lúa)… Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ nổ ra, tre làng được ngả xuống làm hầm, che hào, lót đường. Các lũy tre làng dần xơ xác. Thêm bị bom thù cày xới, bóng tre ở làng quê tan tác, tiêu điều.
Sau khi đất nước thống nhất, kinh tế lâm vào khó khăn, người ở nhiều làng quê lần lượt tìm ra thành phố hoặc xuất khẩu lao động kiếm tiền. Nhiều làng quê trở nên heo hắt khi đàn ông đi biền biệt, ở quê nhà còn lại chỉ là người già, trẻ em. Do hoàn cảnh cuộc sống mới, nhiều gia đình không còn thiết tha hoặc không có khả năng giữ lại mảnh đất của cha ông mình. Họ bán dần bán mòn cho những người ở nơi khác. Sự xen kẽ cư dân tạo nên bức tranh pha tạp về văn hóa làng. Nhiều nét tiêu cực phát sinh, nhiều hình thức cổ truyền có giá trị không được quan tâm gìn giữ hoặc bị áp lực của ngoại cảnh làm cho biến dạng. Chất văn hóa làng thuần khiết dần bị mai một, hoặc bị pha loãng hay biến dạng. Có những làng quê nay đã không còn dấu tích của “cây đa bến nước sân đình” mà bị phố hóa gần như 100%.
Bên cạnh văn hóa làng, còn một nét đẹp truyền thống của văn hóa Việt Nam không thể không nói đến, đó là văn hóa “vùng miền”. Tạo nên nó là những vùng quê có nhiều phong tục, tập quán, nghi lễ, sinh hoạt…gần giống nhau do môi trường sinh thái nhân văn, được ghép lại thành một tên gọi; hoặc có khi là một vùng quê độc lập với địa danh riêng. Những vùng văn hóa đó gọi là “xứ”. Ví dụ: Xứ Đoài, xứ Lạng, xứ Nghệ, xứ Thanh… Đây là những vùng văn hóa mang tính đặc trưng gắn với những giá trị truyền thống mà văn hóa nơi khác không có hoặc không thể thay thế. Nó giống như là vật báu quốc gia, có nhiều trầm tích tạo nên nguyên khí cho đất nước. Đó cũng là nơi phát sáng, sinh ra các hiền tài của nhiều thế hệ. Bởi thế, khi mở rộng thủ đô, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt vẫn luôn bảo vệ tư tưởng không muốn mất đi vùng văn hóa xứ Đoài. Ông coi sáp nhập làm mất đi vùng văn hóa này là một sai lầm khó khắc phục.
Cuộc sáp nhập năm 1962 đã ghép Bắc Ninh và Bắc Giang thành Hà Bắc. Năm 1968 đã ghép các tỉnh Hưng Yên và Hải Dương thành Hải Hưng. Đến năm 1975 lại ghép Hà Nam, Nam Định và Ninh Bình thành Hà Nam Ninh. Đây là vùng đất phù sa cổ ven chân núi có nhiều trầm tích gắn với nên văn hóa Tràng An, Động người xưa và văn hóa Hòa Bình; Năm 1976, ghép Nghệ An và Hà Tĩnh thành tỉnh Nghệ Tĩnh, đến năm 1991 lại tách ra thành hai tỉnh riêng biệt…Nhìn lại một chặng đường lịch sử 50 năm ta thấy các đơn vị hành chính nước ta luôn biến động liên tục. Năm 1975, cả nước có 78 tỉnh thành, sau đó sáp nhập thành 38 rồi lại tăng lên 63. Chỉ riêng từ năm 1975 đến nay, chúng ta trải qua 9 lần sáp nhập và tách ra. Như vậy, chưa đến 6 năm, chúng ta lại thay đổi một lần, có lúc sự thay đổi tạo ra vòng tròn, loanh quanh mãi rồi lại quay về chỗ cũ.
Chưa tính đến sự tốn kém tiền bạc vô kể trong mỗi lần thay đổi công sở làm việc, bộ máy nhân sự hành chính cũng liên tục dao động, bất ổn. Vì sao vây? Vì đội ngũ chuyên gia, cố vấn của ta rất chắp vá, không được đào tạo bài bản, hệ thống (chưa nói là các nhà khoa học giả quá nhiều), dẫn đến mỗi người (hoặc mỗi tốp) làm việc một cách, không tính đến kế thừa mà chỉ muốn tạo ra tiếng nói riêng của mình, nên đã gây ra những thiệt hại và hệ lụy vô cùng to lớn. Với tinh thần “Làm chủ tập thể:”, mỗi lần như vậy, không có ai chịu trách nhiệm một cách rõ ràng. Cũng không có một con số thống kê nào làm làm rõ những hại to lớn của các cuộc “nhập - tách”??? Gần hai phần ba thế kỷ qua, lần nào tôi cũng thấy báo chí nói, đó là một bước tiến và thắng lợi to lớn của chính sách mới, nhưng lần nào thì giá cả cũng bùng lên, dân tình điêu đứng… Chúng ta luôn thắng lợi về tư tưởng và chính trị còn kinh tế lại là những thất bại. Thê thảm nhất là sau vụ “Giá-lương tiền” mà bất cứ ai ngoài tuổi 50 đều đã nếm mùi cay đắng của nó.
Lý thuyết của chúng ta rất hùng mạnh “Con người sáng tạo ra thế giới…”, nhưng chúng ta đã sáng tạo ra một thế giới như thế nào? Chúng ta cần tỉnh táo nhìn lại để con cháu chúng ta không phải giẫm lên những bước chân sai lầm đã đi. Khát vọng không thể tách rời tư duy. Tôi hy vọng các cố vấn là chuyên gia, các giáo sư, tiến sĩ (đông đảo như vậy) cần làm việc có trách nhiệm thực sự vì dân, vì nước để sau lần sáp nhập này chúng ta có thể ổn định được lâu dài cấu trúc hành chính-xã hội của đất nước. Cũng giống như việc làm đường. Nếu chúng ta có qui hoạch và cách nhìn tổng thể thì chỉ làm một lần là xong. Nhưng… có biết bao đoạn đường cứ đào lên đắp xuống mãi. Lần nào cũng có vẻ tốt hơn lần trước nhưng thực chất lại vô cùng chắp vá và trên thực tế, chúng ta rất nghèo nhưng đổ tiền đi mà không mấy ai tiếc của.
Tôi và mọi người đều có thói quen tự hào về thế hệ mình. Nhưng hãy nghĩ khác một chút, xa hơn một chút. Rồi con cháu có tự hào về chúng ta hay phán xét chúng ta?
trechantrau

Powered by Froala Editor