Viện phương đông

3 năm trước

Đánh giá ngôn ngữ trong văn bản khoa học tiếng Việt: kết quả bước đầu

Công trình lý luận về văn bản khoa học ở Việt Nam chưa nhiều, và mặc dù đã có rất nhiều quy định về văn bản khoa học, nhưng cách viết, cách diễn đạt thế nào, trình bày nội dung của văn bản khoa học bằng ngôn ngữ ra sao là những vấn đề chưa được nghiên cứu thấu đáo để đưa ra hướng dẫn tỉ mỉ. Vì thế, văn bản khoa học tiếng Việt còn tồn tại một số khiếm khuyết, và chưa hoàn toàn đáp ứng tiêu chuẩn chung quốc tế. Nghiên cứu này tiến hành khảo sát 01 luận văn, 16 luận án cùng 16 tóm tắt luận án, 90 bài báo trên một số tạp chí, và trên 300 báo cáo hội nghị hội thảo về ngôn ngữ học nói chung và một số ngành khoa học xã hội & nhân văn liên quan nhằm xác định đó là những khiếm khuyết gì về mặt ngôn ngữ. Các văn bản này đều được lựa chọn ngẫu nhiên. Căn cứ vào các quy định hiện hành về văn bản khoa học, đặc điểm phong cách khoa học theo đề xuất của Hữu Đạt (2011), Olaniyan (2014), và Nguyễn Thị Minh Tâm & Ngô Hữu Hoàng (2017), ba tiêu chí đánh giá tập trung vào tiêu đề, tóm tắt, và cách sử dụng ngôn ngữ trong nội dung văn bản khoa học. Kết quả khảo sát bước đầu cho thấy 2 vấn đề lớn trong văn bản khoa học tiếng Việt là: (i) tiêu đề và tóm tắt không cung cấp đầy đủ thông tin cần yếu hoặc không tương thích với nội dung; (ii) sử dụng ngôn ngữ chưa đúng ngữ vực, chưa phù hợp với đối tượng độc giả mà văn bản khoa học hướng đến. Kết quả này, cùng với những nghiên cứu tiếp theo về văn bản khoa học, sẽ đóng góp những tư liệu lý luận và thực tiễn quan trọng để xây dựng tài liệu hướng dẫn hữu ích về cách viết văn bản khoa học tiếng Việt sao cho đầy đủ, chất lượng và theo kịp chuẩn mực quốc tế.

Powered by Froala Editor

Từ khoá: văn bản khoa học, đánh giá, tiêu đề, tóm tắt, phong cách

Evaluation of language used in Vietnamese academic papers: preliminary results

Abstract: Despite various regulations on the format of academic writing, the ways information is presented or arguments are expressed linguistically in academic papers in Vietnamese remain an issue. Vietnamese academic papers therefore may not fully comply with common international standards. This study investigates a number of academic papers randomly selected from theses, dissertations, summaries of dissertations, journal articles and conference papers on linguistics and relevant social sciences and humanities. Based on current regulations on academic writing, characteristics of academic style and register suggested by Huu Dat (2011), Olaniyan (2014), and Nguyễn Thị Minh Tâm & Ngô Hữu Hoàng (2017), three evaluation criteria focus on titles, abstracts and language use in the main texts. Preliminary results show two major issues in Vietnamese academic papers, namely (i) the titles and abstracts fail to provide sufficient relevant information or are not fully aligned with the main text; and (ii) language register is improper or unsuitable to the intended audience of the papers. These results, together with subsequent studies on academic writing, will provide significant theoretical and practical grounds for developing useful guides for writing Vietnamese academic papers so that they can ensure quality up to international standards. 

Keywords: academic writing, evaluation, title, abstract, style


PGS.TS. Lâm Quang Đông hiện là Phó Hiệu trưởng kiêm Tổng biên tập Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài sau nhiệm kỳ Trưởng Khoa tiếng Anh rồi Trưởng phòng Khoa học – Công nghệ, Trường Đại học Ngoại ngữ – ĐHQGHN. PGS.TS. Lâm Quang Đông đã giảng dạy tiếng Anh bậc đại học từ năm 1989, và sau khi tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Giảng dạy tiếng Anh cho người phi bản ngữ (TESOL) tại Đại học Boston, Hoa Kỳ năm 1995, ông bắt đầu tham gia đào tạo bậc sau đại học. Các môn học ông đã đảm nhiệm giảng dạy gồm Tiếng Anh phổ thông, Tiếng Anh chuyên ngành, Ngữ pháp tiếng Anh, Đào tạo Phiên dịch, Nhập môn văn hoá Anh-Mỹ, Lý luận về học tập và thụ đắc ngôn ngữ, Phương pháp giảng dạy tiếng Anh như một ngoại ngữ/ngôn ngữ thứ hai (EFL/ESL), Thiết kế chương trình và tài liệu dạy-học tiếng Anh, Ngôn ngữ học đại cương, Ngôn ngữ học tri nhận và Ngữ nghĩa học.

Những công trình khoa học tiêu biểu của PGS.TS. Lâm Quang Đông là giáo trình Tiếng Anh dành cho sinh viên Luật, Hà Nội: NXB ĐHQGHN, 2002; chuyên khảo Cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu với nhóm vị từ trao/tặng (trong tiếng Anh và tiếng Việt), Hà Nội: NXB KHXH, 2008; bản dịch tiếng Việt (NXB ĐHQGHN, 2017) chuyên khảo Ngữ nghĩa giới từ tiếng Anh: khung cảnh không gian, nghĩa nghiệm thân và tri nhận của hai tác giả Andrea Tyler và Vyvyan Evans, Cambridge: NXB Đại học Cambridge, 2003 ngoài nhiều bài báo công bố trên các tạp chí Ngôn ngữ, Ngôn ngữ & Đời sống, Từ điển học và Bách khoa thư, và Nghiên cứu nước ngoài cũng như các bài trình bày hội nghị hội thảo khác.



Đánh giá ngôn ngữ trong văn bản khoa học tiếng Việt: 

kết quả bước đầu

Lâm Quang Đông(*)



  1. Đặt vấn đề

Có thể nói từ trước tới nay, viết văn bản khoa học (academic writing), còn gọi là viết học thuật, ít được tổ chức giảng dạy, rèn luyện một cách bài bản như một môn học bắt buộc cho sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh ở Việt Nam, đơn giản là vì cho tới nay chưa có một công trình lý luận hoàn chỉnh, đầy đủ về văn bản khoa học tiếng Việt. Từ trước tới nay, văn bản khoa học mới chỉ được đề cập ở một vài công trình, nhưng mức độ còn rất hạn chế. Chẳng hạn, công trình Phong cách học tiếng Việt hiện đại của Hữu Đạt (2011) có đề cập tới phong cách khoa học trong khoảng hai chục trang, bao gồm định nghĩa, đặc điểm ngôn ngữ, các dạng tồn tại, cấu trúc văn bản khoa học. Hữu Đạt (tr.156) cho rằng “dạng nói của nó [ngôn ngữ viết của văn bản khoa học] thực chất là những biến dạng của ngôn ngữ viết được thể hiện dưới dạng âm thanh”. Tuy nhận định này còn có điểm cần thảo luận thêm, nhưng tạm thời chúng tôi chưa bàn đến nội dung của nó mà chỉ muốn nhấn mạnh rằng, theo quan sát của chúng tôi, có tác giả Việt Nam lại làm ngược lại so với nhận định này, tức là đưa ngôn ngữ nói vào ngôn ngữ viết trong văn bản khoa học của mình. Dĩ nhiên, nhiều từ ngữ, cấu trúc có thể sử dụng trong cả ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết, nhưng có những từ ngữ thường chỉ dùng trong ngôn ngữ nói mà không nên dùng trong ngôn ngữ viết. Nói cách khác, hai phong cách nói và viết chưa được các tác giả đó phân định rạch ròi. 

Trong phần tiếp theo, Hữu Đạt chỉ ra được chức năng của văn bản khoa học và đặc điểm của nó, bao gồm tính bình đẳng trong sử dụng ngôn ngữ; tính khách quan, lạnh lùng; tính trừu tượng và khái quát hóa cao; tính ngắn gọn, khúc triết và lôgic chặt chẽ; tính một nghĩa và phi hình tượng. Về sử dụng từ ngữ, phong cách khoa học “là phong cách mà ngôn ngữ có tính thuật ngữ cao” (tr. 163). Đây là những nhận xét có tính khái quát cao, kết quả của sự nghiên cứu, khảo sát khá toàn diện của tác giả và nhờ đó, công trình này của Hữu Đạt là một tài liệu giảng dạy có giá trị và hữu ích về lý luận của môn Phong cách học tiếng Việt. 

Tuy nhiên, đây vẫn chưa phải là một tài liệu lý luận riêng, đầy đủ về văn bản khoa học, và định nghĩa văn bản khoa học là gì không được trình bày hiển ngôn mà chỉ được nhận biết qua các đặc điểm cấu trúc và ngôn ngữ mà tác giả chỉ ra. Đặc biệt, công trình này còn thiếu vắng ví dụ minh họa để có thể sử dụng làm tài liệu huấn luyện cách viết văn bản khoa học. Một học viên cao học hoặc nghiên cứu sinh có thể thuộc lòng những kiến thức lý luận này, nhưng có thể không nhận ra mình đã vi phạm những chuẩn mực đó trong bài viết, luận án của mình, đơn giản chỉ vì họ chưa được đào tạo một cách chính thức về cách viết. Các giáo viên hướng dẫn khoa học nói chung chỉ giúp họ về đường hướng, phương pháp nghiên cứu là chính chứ khó có thời gian chỉ ra và sửa chữa từng câu cho họ được; việc này phải có giáo viên hoặc cán bộ chuyên trách hỗ trợ. Nhận định này đã được trình bày trong một bài viết trước của chúng tôi (Lâm Quang Đông, 2010). Ở nhiều trường đại học nước ngoài như ở Mỹ, luôn có một Trung tâm Viết (Writing Center) hoặc đơn vị tương tự để tư vấn, hỗ trợ sinh viên viết bài, sửa bài, kể cả sinh viên bản ngữ cũng như phi bản ngữ. Các trường đại học Việt Nam có lẽ chưa có một đơn vị nào như vậy. Môn Viết văn bản khoa học hình như chỉ có trong chương trình đào tạo ngoại ngữ, cho nên thực tế nhiều sinh viên, cán bộ ngành tiếng Anh chẳng hạn có thể viết tiếng Anh rất tốt, nhưng lại gặp rất nhiều vấn đề khi viết bằng tiếng Việt. Đó là một nhận xét chung trong những buổi bảo vệ luận án, luận văn, đề tài khoa học bằng tiếng Việt của cán bộ tiếng Anh mà chúng tôi tham dự.

Văn bản khoa học tiếng Việt cũng được đề cập rải rác theo một số phương diện nhất định ở những công trình khác như Diệp Quang Ban (2002, 2005) Đinh Trọng Lạc (1999, 1994), Đinh Trọng Lạc và Nguyễn Thái Hoà (1993), Trần Ngọc Thêm (1999), hoặc luận án của NCS Nguyễn Thị Huyền Trang (đang thực hiện) về thành phần rào đón trong văn bản khoa học, và Nguyễn Thị Minh Tâm & Ngô Hữu Hoàng (2017) về phần tóm tắt trong các bài báo khoa học tiếng Anh và tiếng Việt. Có thể thấy lý luận về văn bản khoa học tiếng Việt hiện nay vẫn còn khá ít ỏi. Vì chưa có lý luận nên cũng không thể có tài liệu, giáo trình tập trung hướng dẫn và rèn luyện cách viết văn bản khoa học. Phải nói rằng trong thực tế, nhiều tác giả vẫn viết theo kinh nghiệm là chính, hoặc mô phỏng cách viết của châu Âu từ giữa thế kỷ trước. Những mô phỏng đó không đầy đủ, hoàn chỉnh, và sáu, bảy mươi năm qua, yêu cầu đối với văn bản khoa học châu Âu cũng đã có nhiều thay đổi. Văn bản khoa học tiếng Việt hiện đại đã du nhập, hoặc chịu ảnh hưởng lớn của phong cách văn bản khoa học châu Âu nên cũng cần phải có nhiều cải tiến để theo kịp những yêu cầu chung của khoa học quốc tế. Như Công văn số 37/ HĐCDGSNN ngày 04 tháng 4 năm 2016 và Công văn số 30/HĐCDGSNN ngày 26 tháng 5 năm 2017 của Hội đồng Chức danh giáo sư nhà nước đã nhận định, “So với những yêu cầu và chuẩn mực quốc tế thông dụng về nội dung, chất lượng khoa học và thể thức, hình thức trình bày, các tạp chí và bài báo khoa học của nước ta còn phải được cải tiến, nâng cao hơn nữa thì mới có thể ngày càng tiếp cận quốc tế được.” Dĩ nhiên, nội dung của hai công văn trên của Hội đồng Chức danh giáo sư nhà nước (HĐCDGSNN) không cho phép đề cập đến cách viết, cách diễn đạt, trình bày nội dung của văn bản khoa học về mặt ngôn ngữ. Đó là một khoảng trống cần phải đầu tư nghiên cứu. 

Vì lẽ đó, văn bản khoa học tiếng Việt cần được khảo sát, đánh giá về mặt ngôn ngữ trên cơ sở những yêu cầu chung của văn bản khoa học quốc tế (chủ yếu là văn bản viết bằng tiếng Anh) nhằm xác định những khiếm khuyết, những lỗi thường mắc và những điểm cần khắc phục trong văn bản khoa học tiếng Việt để nâng cao chất lượng, đáp ứng chuẩn mực quốc tế như hai công văn nói trên đã khuyến nghị. Đây là một nghiên cứu dài hạn, đòi hỏi thời gian công sức lớn cho nên bài viết này chỉ có thể trình bày những kết quả khảo sát bước đầu. 

Để thực hiện nghiên cứu này, chúng tôi tạm đưa ra một quan niệm ‘làm việc’ (working definition) như sau: văn bản khoa học là văn bản trình bày kết quả nghiên cứu, khảo sát một vấn đề khoa học nào đó, hoặc thảo luận những vấn đề lý luận liên quan đến những chuyên ngành khoa học nhất định, được trình bày, công bố trong bối cảnh học thuật. Văn bản khoa học có độ dài ngắn khác nhau, đáp ứng những tiêu chí cụ thể khác nhau và có thể bao gồm: tóm tắt[1] và toàn văn báo cáo hội nghị/hội thảo/toạ đàm khoa học; bài báo công bố trên các tạp chí khoa học chuyên ngành; tiểu luận, khoá luận, luận văn và trích yếu luận văn của sinh viên đại học và học viên sau đại học; luận án tiến sĩ và tóm tắt, trích yếu luận án; chuyên luận; và những hình thức công bố sản phẩm khoa học được công nhận khác. 

  1. Dữ liệu và tiêu chí đánh giá

Bài viết này trình bày kết quả đánh giá bước đầu một số văn bản tiếng Việt thuộc khoa học xã hội và nhân văn, chủ yếu gồm: 01 luận văn, 16 luận án cùng 16 tóm tắt luận án tiến sĩ ngành ngôn ngữ học, 90 bài báo khoa học trên một số tạp chí khoa học xã hội và nhân văn, và trên 300 báo cáo hội nghị, hội thảo liên quan đến các ngành này qua các năm 2015, 2016 và 2017, đặc biệt là những bản thảo của các văn bản nói trên mà chúng tôi có điều kiện tiếp cận và lựa chọn ngẫu nhiên (sau đây xin gọi chung là văn bản dữ liệu – VBDL).[2] Ý kiến phản biện của một số nhà khoa học về VBDL cũng được tham khảo để kiểm chứng các nhận định trong đánh giá này. Văn bản khoa học trong các ngành khác như khoa học tự nhiên, kỹ thuật, v.v. chúng tôi chưa thể khảo sát tại thời điểm hiện nay. Cũng xin khẳng định lại đánh giá nhằm chỉ ra những khiếm khuyết cần khắc phục để thực hiện đúng tinh thần mà hai công văn của HĐCDGSNN đã khuyến cáo, cho nên những ví dụ VBDL đưa ra trong bài viết này chỉ mang tính chất minh hoạ chứ hoàn toàn không có ý định chỉ trích, phê bình các tác giả, và bản thân tôi cũng đã từng mắc một số lỗi tương tự. 

Qua tham khảo một số quy định về bài báo khoa học, luận văn, luận án, v.v. của các đơn vị đào tạo như Trường Đại học Ngoại ngữ – ĐHQGHN, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQGHN, Học viện Khoa học Xã hội, Trường Đại học Nha Trang, Đại học Đà Nẵng, Đại học Huế, Đại học Quốc gia Tp Hồ Chí Minh, v.v., căn cứ các đặc điểm của phong cách khoa học mà Hữu Đạt (2011) đã chỉ ra, cùng với những đặc điểm mà Olaniyan (2014) và Nguyễn Thị Minh Tâm & Ngô Hữu Hoàng (2017) đã đề xuất, tiêu chí được sử dụng trong đánh giá này về mặt ngôn ngữ có thể khái lược qua những câu hỏi sau:

  1. Tiêu đề có phù hợp, thống nhất với nội dung và thể hiện được nội dung chính của VBDL hay không?
  2. Phần tóm tắt có cung cấp đầy đủ thông tin về VBDL hay không, bao gồm hầu hết, hoặc tất cả các mục sau (tuỳ thuộc vào VBDL là luận văn, luận án, tóm tắt luận án, bài báo trình bày kết quả nghiên cứu hay thảo luận những vấn đề lý luận, hoặc chỉ là bài trao đổi kinh nghiệm): 

1. Thông tin nền (Background Information - BI);

2. Đặt vấn đề (Problem Statement - PS);

3. Mục tiêu (Statement of Objectives - SO);

4. Khung lý thuyết (Theoretical Framework - TF);

5. Phương pháp/ quy trình (Methods / Procedure - MP);

6. Khung phân tích (Analytical Framework - AF);

7. Đối tượng tham gia cung cấp dữ liệu / Dữ liệu (Participants / Data - PD);

8. Tóm tắt kết quả (Summary of Findings / Discussion - SF);

9. Kết luận / Đề xuất (Conclusion / Implication - CI).

  1. Ngôn ngữ sử dụng có phù hợp về ngữ vực, ngữ cảnh, vai giao tiếp với độc giả không, có đảm bảo tính bình đẳng, tính khách quan không? 

Theo 3 tiêu chí trên, đánh giá của chúng tôi cho những kết quả chính sau đây.

  1. Kết quả đánh giá và thảo luận
  1. Về tiêu đề

Về bản chất, tiêu đề, hay tên đề tài, nghĩa là tên được đặt cho văn bản, và phải nói lên được nội dung cơ bản nhất mà văn bản muốn trình bày. Đương nhiên, tiêu đề phải thống nhất với nội dung. Đây là một yếu tố quan trọng trong siêu chức năng biểu hiện của văn bản. Tuy nhiên, những lỗi thường mắc về tiêu đề trong các báo cáo tham dự hội nghị hội thảo và bài báo gửi đăng tạp chí trong VBDL của chúng tôi bao gồm: (i) tiêu đề quá rộng, hoặc quá hẹp so với phạm vi nghiên cứu mà tác giả muốn xử lý hoặc có thể xử lý trong văn bản cụ thể đó; (ii) tiêu đề không thống nhất với nội dung, nội dung không thể hiện đầy đủ những gì tiêu đề đặt ra. Ví dụ (VD), một số phản biện nhận xét: 

(VD1) Nội dung bài viết không cung cấp đầy đủ thông tin như tiêu đề bài báo đã nêu. Tiêu đề ghi là Sử dụng phiếu đánh giá cá nhân để giải quyết hiện tượng “ỷ lại” trong hoạt động nhóm, môn viết. Tiêu đề này khiến người đọc kỳ vọng tác giả thực hiện một nghiên cứu hành động (hay nghiên cứu cải tiến – action research), và như vậy tác giả phải trình bày mình đã thực hiện nghiên cứu như thế nào, quy mô cỡ mẫu (số lượng sinh viên) trong nghiên cứu là bao nhiêu, thời gian, cách thức, đánh giá kết quả, hiệu quả của nghiên cứu như thế nào, v.v. Tuy nhiên, những kỳ vọng này chưa được đáp ứng.                                                                            

(VD2) Tiêu đề cần xác định lại là năng lực hay kỹ năng (competence vs. skill) để đảm bảo thống nhất với nội dung bài báo.                                                

Các tiểu mục trong văn bản khoa học cũng có tiêu đề riêng của chúng, và cũng phải đáp ứng những yêu cầu trên. Tuy nhiên, nội dung tiểu mục không thống nhất với tiêu đề tiểu mục thuộc số những lỗi thường gặp ở sinh viên, học viên và nghiên cứu sinh chưa có nhiều kinh nghiệm. Chẳng hạn, trong mục 2.2. của văn bản sau (bản thảo lần đầu của một nghiên cứu sinh), tác giả đặt tiêu đề là nguyên nhân của hiện tượng trộn mã, nhưng những tiểu mục 2.2.1 và 2.2.2 lại hoàn toàn chỉ nói đến xu hướng trộn mã chứ không phân tích nguyên nhân của hiện tượng này:

(VD3) 2.2. Nguyên nhân của hiện tượng trộn mã trong ngôn ngữ của giới trẻ trên các trang mạng xã hội

2.2.1. Xu hướng đơn giản hóa 

2.2.2. Xu hướng phức tạp hóa

  1. Về tóm tắt, trích yếu

3.2.1. Tóm tắt bài báo, báo cáo

Kết quả đánh giá phần tóm tắt các báo cáo, bài báo trong số VBDL thu được khá trùng lặp với kết quả khảo sát của Nguyễn Thị Minh Tâm & Ngô Hữu Hoàng (2017). Theo số liệu thống kê và phân tích trong nghiên cứu của mình, hai tác giả này kết luận, 

(i) Tóm tắt bài báo trong tiếng Anh có tiềm năng cấu trúc thể loại chi tiết và nhiều thành phần hơn tóm tắt bài báo trong tiếng Việt: tóm tắt tiếng Anh có trung bình là 4.84 thành phần, tóm tắt tiếng Việt trung bình có 2.35 thành phần. Có những tóm tắt trong tiếng Việt chỉ có sơ sài một thành phần cấu trúc duy nhất, không đủ giúp cho độc giả nắm được nội dung của toàn văn bài báo.

(ii) Số lượng thành phần thiết yếu trong tóm tắt bài báo tiếng Anh là 3 thành phần, số lượng thành phần thiết yếu trong tiếng Việt chỉ là 1. Các thành phần lựa chọn trong tóm tắt bài báo tiếng Anh có tần suất được sử dụng khá cao, trong khi các thành phần lựa chọn trong tóm tắt bài báo tiếng Việt có tần suất sử dụng rất thấp, vì vậy nhiều tóm tắt bài báo tiếng Việt không thực hiện được nhiệm vụ truyền tải nội dung chính của bài báo một cách toàn diện. Việc thông tin tóm tắt sơ sài chắc chắn gây ảnh hưởng không tích cực tới lượng độc giả tìm đọc và tham khảo bài viết, vì vậy giảm khả năng “quảng bá” bài báo và uy tín của tác giả bài báo.

(iii) Thành phần được lặp đi lặp lại trong tóm tắt bài báo tiếng Anh là Phương pháp / Quy trình nghiên cứu MP, tạo điểm nhấn cho bài báo. Việc lặp đi lặp lại thành phần này thể hiện mối quan tâm lớn của các tác giả và độc giả vào tính khoa học và độ tin cậy trong việc tiến hành các nghiên cứu. Tính khoa học và độ tin cậy được thể hiện rõ trong tóm tắt là công cụ hữu hiệu để thu hút độc giả và khẳng định chất lượng của bài báo khoa học, uy tín của tác giả. Trong tóm tắt bài báo tiếng Việt, chúng tôi không quan sát thấy thành phần được lặp lại. Phần Phương pháp / Quy trình nghiên cứu MP được thể hiện đa phần tương đối sơ sài. Điều này không thể đưa tới kết luận gì về chất lượng nghiên cứu thể hiện qua bài báo, nhưng thực trạng này cho thấy các nhà nghiên cứu Việt Nam còn ít quan tâm tới việc khẳng định, quảng bá công trình của bản thân. Đây có thể là một trong những lý do tại sao bài báo đăng trên các tạp chí của Việt Nam có số lượng trích dẫn không cao, các tạp chí và tác giả vì vậy khó khẳng định được uy tín trong cộng đồng chuyên môn trong nước và trên thế giới.

(iv) Chúng tôi hoàn toàn không quan sát thấy Khung phân tích AF và So sánh các công trình trước PR trong ngữ liệu tiếng Việt, thay vào đó một số ít tác giả nặng về việc nhấn mạnh tầm quan trọng của nghiên cứu một cách chủ quan. 

Trong 121 tóm tắt báo cáo của một hội thảo năm 2015 trong số VBDL của chúng tôi, có tới 14 tóm tắt mắc phải một, hai, ba, hoặc tất cả 4 nhược điểm theo nhận định trên đây, chiếm gần 12%. Đáng chú ý là tác giả của những báo cáo này trải đều ở tất cả các lứa tuổi, từ cán bộ mới có 2-3 năm kinh nghiệm sau khi tốt nghiệp cử nhân cho đến người sắp đến tuổi về hưu, đã có học hàm học vị. Ở đây chúng tôi không nói đến chất lượng học thuật, và những người đã có học hàm học vị tức là kiến thức và kinh nghiệm của họ đã được khẳng định và công nhận, nhưng một lần nữa (như chúng tôi đã nhận định trong bài viết năm 2010), có thể nói rằng kỹ năng viết không phải lúc nào và với ai cũng đạt mức đồng đều, ngang bằng và song hành với kiến thức. Sau đây là một vài ví dụ minh hoạ:

(VD4) Hệ thuật ngữ quân sự tiếng Việt là tập hợp có hệ thống tất cả các thuật ngữ quân sự được dùng trong lĩnh vực chuyên môn quân sự và tồn tại trong hệ thống từ vựng của tiếng Việt.

     Hệ thuật ngữ quân sự có các đặc điểm cơ bản: có tính tổng hợp cao, tính phổ cập rộng rãi, tính quốc tế và tính dân tộc.                                         

(VD5) Trong thế kỉ 21, người sử dụng mạng xã hội hiện nay là rất phổ biến, bởi nó là một phần của cuộc sống và có sức chi phối rất lớn đến đời sống xã hội, mà giới trẻ chính là đối tượng lớn nhất của mạng xã hội. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và Internet, một loại ngôn ngữ mới do giới trẻ sáng tạo đã ra đời - đó là “ngôn ngữ @”. Ngôn ngữ này đang ngày càng phát triển và có những tác động lớn đến giao tiếp tiếng Việt. Trong đó, giao tiếp ngôn ngữ trên mạng xã hội là vấn đề rất phức tạp, vì nó chịu tác động của hàng loạt các nhân tố ngôn ngữ - xã hội. Mặt khác, giao tiếp ngôn ngữ cũng không thể tách khỏi môi trường văn hóa - xã hội và nó có thể thay đổi liên tục. Vì vậy, việc tìm hiểu hiện tượng trộn mã trong ngôn ngữ giao tiếp của giới trẻ trên các trang mạng xã hội hiện nay sẽ giúp chúng ta hiểu được sự phong phú và đa dạng trong ngôn ngữ giao tiếp của giới trẻ, đồng thời thấy được ưu và nhược điểm của việc sử dụng đó đối với sự phát triển của tiếng Việt. 

Ý kiến của phản biện: Đây là lý do cần phải tiến hành nghiên cứu hiện tượng trộn mã chứ không phải nêu lên những nội dung chính của bài viết. Chưa phải là một tóm tắt.

(VD6) Trong giao tiếp liên văn hóa nắm vững kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo ngôn ngữ thôi chưa đủ mà còn phải tri nhận những đặc trưng khác biệt trong văn hóa của đối tác. Vì vậy trong quá trình dạy học ngoại ngữ cần đưa vào chương trình học những ngữ liệu, cấu trúc giao tiếp liên văn hóa: phương diện biểu cảm bằng ngôn từ và phi ngôn từ, qui chế giao tiếp, đăng lục giao tiếp, những mối quan hệ của qui chế giao tiếp… cùng những chú giải ngôn ngữ (trong những tình huống cụ thể) giúp cho sinh viên nắm vững được chiến lược ngôn ngữ, tránh “sốc văn hóa” đồng thời có thái độ mềm dẻo, linh hoạt trong ứng xử, trân tôn giá trị văn hóa của đối tác để thành công trong giao tiếp liên văn hóa.

(VD7) Văn học so sánh là bộ môn khoa học nghiên cứu các mối quan hệ giữa các nền văn học dân tộc. Đối tượng nghiên cứu của ngành khoa học này bao gồm các mối quan hệ trực tiếp, các điểm tương đồng ngoài quan hệ trực tiếp; các điểm khác biệt độc lập. Với tư cách là  bộ môn khoa học, văn học so sánh có thể sử dụng các phương pháp khác nhau của các trường phái Pháp hoặc Mỹ để phù hợp với các đối tượng nghiên cứu đa dạng và chủ yếu tiến hành so sánh về lý thuyết văn học, lịch sử phát triển văn học, phê bình văn học. Các nhà nghiên cứu Pháp tiến hành một số hướng nghiên cứu văn học so sánh về các lĩnh vực: Nguồn gốc và liên văn bản, Chủ đề, Huyền thoại, Môtif, Thể loại. Áp dụng một số kết quả nghiên cứu văn học so sánh của các nhà nghiên cứu Việt Nam về ảnh hưởng và giao thoa giữa văn học Pháp và văn học Việt Nam trong giảng dạy các môn văn học và văn hóa nhằm tạo độ sâu cho nội dung môn học, kích thích niềm say mê môn học và đặc biệt tạo lập bước đầu khả năng độc lập trong cảm thụ và nghiên cứu tác phẩm học.

 

Cá biệt, có hai tóm tắt, một tóm tắt dài tới 531 từ (VD8) và tóm tắt kia dài 253 từ (VD9), nhưng thông tin bắt buộc và quan trọng nhất của tóm tắt là bài viết này viết về cái gì lại không tìm thấy, hoặc hoàn toàn không rõ, không được trình bày hiển ngôn. Thay vào đó, tóm tắt được viết như một phần trong chính văn:

(VD8) Hiện nay, chúng ta đang có sự lẫn lộn giữa hai cách viết “uơ” và “ua” trong một số từ của tiếng Việt, ví dụ: thuở/ thủa; khuơ/ khua; huơ/ hua. Trong đó điển hình nhất là “thuở/ thủa”. Trong Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên, dưới đây gọi tắt là Từ điển) có cả hai từ “thuở” và “thủa”. Trong các sách giáo khoa phổ thông, chúng tôi chỉ thấy cách viết là “thuở” mà không thấy cách viết là “thủa”. Vậy chúng ta nên viết là “thuở” hay viết là “thủa”?

Ua” và “uơ” đều có âm trị là [uo]. [uo] ngoài cách viết “ua”, “uơ” ra, còn có cách viết là “uô” khi đằng sau nó có âm cuối. Chúng tôi dựa vào Từ điển để khảo sát tất cả các trường hợp “ua” và “uơ” kết hợp với âm đầu, kết quả có 3 trường hợp: 1) Cả “ua” và “uơ” đều không kết hợp, gồm 3 âm đầu g, ph, tr; 2) Cả “ua” và “uơ” đều kết hợp, gồm 3 âm đầu h, kh, th: Hua, hùa/ huơ; khua/ khuơ; thua/ thuở; 3) “ua” kết hợp, “uơ” không kết hợp, gồm 17 âm đầu (b, c, ch, d, đ, gi, l, m, n, ng, nh, r, s, t, v, x và âm đầu không ø); 4) “ua[uo]” không kết hợp, “uơ” kết hợp, gồm 1 âm đầu q: Quơ, quờ, quở, quớ.

Trường hợp thứ 1 không có gì để nói cả. Trường hợp thứ 4 sở dĩ “ua [uo]” không kết hợp với âm đầu “q” là vì “q” đã kết hợp với vần “ua[uɑ]” rồi. Tại sao trong trường hợp thứ hai cả “ua” và “uơ” đều có thể kết hợp được với “h, kh, th”? Nếu nhìn vào trường hợp thứ 3, ta thấy số lượng các âm đầu kết hợp với “ua” và không kết hợp với “uơ” là rất lớn. Chúng ta không có các cách viết như: buơ, cuơ, đuơ, vuơ, chuơ, duơ… Vậy nếu như xét trên cả hệ thống thì “h, kh, th” chỉ nên kết hợp với “ua” chứ không nên kết hợp với “uơ”.

Ngoài “thủa” ra, còn có “thua” và “thùa”. Xét về mặt ngữ âm, “thua, thùa” và “thuở/ thủa” có âm đầu và vần giống nhau, chúng chỉ khác nhau về thanh điệu. “Thua, thùa” không hề có dạng tương ứng là “thuơ, thuờ”. Vậy trong tương quan so sánh giữa “thủa” và “thuở”, chúng ta phải chọn cách viết là “thủa”.

Tóm lại, ngoại trừ trường hợp “uơ” kết hợp với “q” ra, bất kể là xét trên bình diện cả hệ thống ngữ âm hay chỉ xét đến những trường hợp cụ thể, khi không có âm cuối, [uo] chỉ nên viết là “ua” chứ không nên viết là “uơ”. Việc tồn tại cách viết “uơ” ở các từ “huơ, khuơ, thuở” chỉ làm cho hệ thống chữ Quốc ngữ trở nên phức tạp hơn, từ đó gây bất tiện và ảnh hưởng đến hiệu quả của việc sử dụng. Từ điển và sách giáo khoa nên xem xét bỏ cách viết “uơ” ở những trường hợp này. (531 từ)

(VD9) Thể diện là khái niệm cơ bản của lý thuyết lịch sự trong ngôn ngữ học. Để có mối quan hệ hài hoà, người tham thoại phải chú ý đến thể diện của nhau, có nghĩa là tôn trọng thể diện hay không đe doạ thể diện. Trong thương lượng về giá cả, mặc cả, người mua và người bán Việt Nam sử dụng các mặt thể diện như thể nào để dành phần thắng?

Trước hết phải nói rằng một khi đã chấp nhận mặc cả, người bán và người mua đã sẵn sàng cho một cuộc giao tiếp mang tính đối đầu nơi mà các mặt thể diện của họ đều bị đe dọa nghiêm trọng. Do vậy họ sẵn sàng sử dụng mọi chiến thuật có thể để dành phần thắng. Họ có thể dùng các chiến thuật lịch sự như nâng cao thể diện của đối phương, hay tự đe dọa thể diện dương tính của mình và ngược lại họ có thể dùng các chiến thuật bất lịch sự như đe dọa các mặt thể diện của đối phương. Mục đích cuối cùng là dành được giá tốt.

Tất cả các chiến thuật đó tạo nên một cuộc giao tiếp căng thẳng ở đó các hành động nghi lễ đều vắng bóng: không chào hỏi, không cám ơn…, kịch bản của các cuộc giao tiếp này cùng đầy những trắc trở. Chúng tôi có thể kết luận người Việt rất giỏi trong trò chơi thương lượng này. (253 từ)

 

Đương nhiên, các tác giả này đã có những chỉnh sửa cần thiết đối với tóm tắt của mình sau khi được góp ý, và một điều đáng mừng là trong hơn 200 bản thảo báo cáo lần đầu gửi đến hai hội thảo năm 2016 và 2017, sau khi nhận được những hướng dẫn, yêu cầu cụ thể có kèm ví dụ về quy cách trình bày báo cáo và tóm tắt báo cáo của Ban tổ chức, tỉ lệ tóm tắt mắc phải 4 nhược điểm nói trên đã giảm đáng kể, chỉ chiếm khoảng 7% và tập trung vào những tác giả là cán bộ trẻ, có thể còn ít kinh nghiệm nghiên cứu.

3.2.2. Trích yếu luận văn, luận án và tóm tắt luận án 

Một trong những điểm chung trong các quy định về trích yếu luận văn, luận án và tóm tắt luận án là nó phải phản ảnh trung thực kết cấu, bố cục và nội dung của luận văn, luận án, và tóm tắt luận án phải trình bày đầy đủ toàn văn kết luận của luận án. Dù dài ngắn đến đâu, những trích yếu, tóm tắt này là một văn bản hoàn chỉnh với bố cục và nội dung rõ ràng. Một lỗi xuất hiện ở 1 trích yếu luận văn và 5 tóm tắt luận án trong số 1 luận văn và 16 tóm tắt luận án mà chúng tôi khảo sát là tác giả dường như lấy nguyên cấu trúc các phần của luận án, sau đó xoá đi những nội dung được cho là không quan yếu, rồi thu nhỏ cỡ chữ để làm thành trích yếu, tóm tắt sao cho không vượt quá quy định 24 trang khổ A5. Do vậy, có tiểu mục chỉ có tiêu đề mà hoàn toàn không có nội dung, hoặc chỉ có những đầu mục ở cấp thấp hơn mà không cung cấp nội dung, ví dụ:

(VD10) 2.1.7. Phân biệt thuật ngữ với một số khái niệm liên quan

  • Thuật ngữ và danh pháp
  • Thuật ngữ và từ nghề nghiệp
  • Thuật ngữ và từ thông thường

…….

3.1. Đôi nét về phương thức cấu tạo từ trong tiếng Việt và tiếng Anh

3.2. Đặc điểm cấu tạo thuật ngữ âm nhạc tiếng Việt và tiếng Anh

 

(VD11)


Một phản biện nhận xét như sau:

(VD12) Trích yếu luận án và Tóm tắt luận án được viết gọn gàng, phản ánh khá đầy đủ và sát hợp với nội dung luận án. Tuy nhiên, một số tiểu mục mới chỉ có đầu mục mà không có nội dung, mặc dù tác giả nói trong bản tóm tắt này xin được phép mô tả một thì (tr.9, 16). Tác giả nên chọn cách tóm tắt khác cho nội dung các mục này, và thêm chủ ngữ cho câu chúng tôi vừa dẫn. Nên thay qua các ví dụ ta thấy bằng các ví dụ trên cho thấy (tr.10). Còn lỗi chính tả như tương tương (mục 3.2.2. tr. 15). Ở tr. 22 Tóm tắt, tác giả viết rất mơ hồ là bước thứ hai đến bước thứ tư giống bước thứ nhất – không thể hiểu các bước này là gì, thực hiện như thế nào, tại sao lại giống bước thứ nhất, và nếu giống rồi thì hà tất phải chia ra. Tác giả cần chỉnh sửa lại Tóm tắt, vì có lẽ nhiều người đọc nó hơn so với toàn văn luận án.

Tác giả ở (VD10) không nêu rõ thuật ngữ được phân biệt với danh pháp, từ nghề nghiệp và từ thông thường ở chỗ nào, và mục 3.1 cũng không tóm lược được ‘đôi nét’ về phương thức cấu tạo từ trong tiếng Việt và tiếng Anh; và tác giả ở (VD11) và (VD12) cũng mắc lỗi tương tự. Đó là cách làm hoàn toàn sai lầm, và không đáp ứng yêu cầu của trích yếu, tóm tắt. Tác giả có thể không cần nêu rõ các tiểu mục quá chi tiết như luận án, mà thay vào đó là tóm lược lại những nội dung chính của chúng. Nói cách khác, quá trình viết tóm tắt luận án thực sự là quá trình viết lại luận án ở mức độ cô đọng, khái quát hơn, cung cấp những thông tin quan yếu nhất và độc giả cần biết nhất. Có như thế mới đúng tinh thần và yêu cầu của trích yếu, tóm tắt. Đây là một việc không dễ, và mất thời gian công sức đáng kể, song, theo một số nghiên cứu sinh (NCS) thừa nhận, không phải tất cả NCS đều đầu tư thỏa đáng cho việc này. Vì lẽ đó, tóm tắt luận án của họ đã mắc phải những sai sót như vậy.

  1. Ngôn ngữ sử dụng trong VBDL

Vấn đề nổi lên trong ngôn ngữ ở các VBDL này là việc sử dụng các từ ta, chúng ta, tôi, chúng tôi, tác giả (từ tác giả này được chính tác giả của văn bản sử dụng để chỉ mình chứ không phải tác giả của các công trình khác, tức là nó được sử dụng như đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất số ít).

Trước hết, chức năng của ngôn ngữ là làm phương tiện, công cụ của giao tiếp. Một phát ngôn bằng lời nói hay văn bản đều có đối tượng giao tiếp của riêng nó, dù đối tượng giao tiếp đó có thể hiện diện hay khiếm diện, trực tiếp hay gián tiếp. Tác giả của ngôn phẩm nào cũng đều cần phải lưu ý đến đối tượng giao tiếp của mình để lựa chọn ngôn ngữ cho phù hợp. Văn bản khoa học cũng vậy, nó có đối tượng độc giả mà nó muốn hướng tới. Độc giả của văn bản khoa học thường là những người trong cùng ngành khoa học với tác giả của văn bản. Độc giả của các tạp chí đa dạng hơn, nhiều lứa tuổi hơn, và hoàn toàn bình đẳng với tác giả bài báo công bố trong các tạp chí đó. Trong các giáo trình dạy viết văn bản khoa học, đối tượng giao tiếp của văn bản luôn luôn được nhấn mạnh. Chẳng hạn, Oshima và Hogue khẳng định:

Whenever you write, consider your specific audience, that is, the people who will read what you have written. In academic writing, your audience is primarily your professors or instructors.                 (1998: 2; 2006:265)

(Bất cứ khi nào bạn viết, hãy cân nhắc đối tượng độc giả cụ thể của mình, tức là người sẽ đọc những gì bạn viết. Đối với văn bản học thuật, độc giả của bạn trước hết là giáo sư, hay giảng viên của bạn.)

Diamond và Fahey (1997) cũng tuyên bố:

Writing is work – hard work. It’s the writer’s job to make the information clear to the reader. The more you, the writer, work, the less the reader has to work. If you do a good job as a writer, you can be sure that your reader will appreciate it. And if you do a poor job, you can be sure your reader will notice it….

To whom, exactly, are you writing? How much do they know? What are their questions and concerns? Just as effective speakers know their audiences, so must effective writers. Knowing your audience helps you select appropriate information and tone for your writing.    (1997: 2-3)

(Viết là một công việc – một công việc vất vả. Việc của người viết là cung cấp thông tin rõ ràng cho người đọc. Bạn – người viết – càng cẩn trọng thì người đọc càng đỡ mệt. Nếu bạn viết tốt, chắc chắn người đọc sẽ đánh giá cao. Và nếu bạn viết tồi, chắc chắn người đọc cũng sẽ nhận ra ngay…

Chính xác là bạn đang viết cho ai? Họ đã biết đến mức nào rồi? Họ có những thắc mắc băn khoăn gì? Một diễn giả hiệu quả là người biết rõ người nghe, và người viết hiệu quả cũng vậy. Biết rõ độc giả là ai giúp bạn lựa chọn được thông tin và giọng điệu phù hợp trong văn bản của mình.)

Trong các bài báo được khảo sát, việc lựa chọn từ ngữ xưng hô hầu như không có vấn đề gì, tức là tiêu chí thứ ba được thoả mãn. Ngôn ngữ sử dụng phù hợp về ngữ vực, ngữ cảnh, vai giao tiếp với độc giả, đảm bảo tính bình đẳng và khách quan.

Trái lại, độc giả của luận văn, luận án về nguyên tắc cũng bình đẳng với tác giả trong khoa học, song người đọc và chấm những luận văn luận án đó trước hết là hội đồng gồm các nhà khoa học có uy tín trong ngành, và sau khi bảo vệ xong, tác giả mới chỉnh sửa và công bố cho độc giả rộng rãi hơn. Về một mặt nào đó, luận văn luận án vẫn là ‘bài thi’ của học trò trình lên ‘thầy’, cho nên từ ngữ xưng hô trong văn bản vẫn có những ảnh hưởng nhất định bởi các mối quan hệ này, giống như các yếu tố ngôn ngữ khác của tiếng Việt. 

Theo đó, tác giả luận văn luận án nên xưng là ta, chúng ta hay tôi, chúng tôi? Trong tiếng Việt, ta được dùng để chỉ ngôi thứ nhất số ít, nhưng cũng được dùng để chỉ ngôi thứ nhất số nhiều khi người nói muốn ‘lôi kéo’ người nghe về phía mình, đồng tình cùng mình, ví dụ:

                                    Ta về ta tắm ao ta

                        Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn (Ca dao)

                                    Ta đi giữa ban ngày

                                    Trên đường cái, ung dung ta bước (Tố Hữu Ta đi tới)

 

Ta thể hiện sự tự hào, vị thế có phần ‘cao ngạo’ của người nói khi dùng ở số ít để chỉ chính mình. Khi dùng ở số nhiều, nét ‘cao ngạo’ đó mờ đi nhường chỗ cho ý nghĩa số nhiều, bao gồm cả người nói và người nghe, thay thế được cho chúng ta. Hai từ ta và chúng ta thường được giáo viên sử dụng khi giảng bài, trao đổi các vấn đề khoa học với học trò, hướng dẫn cho học trò. Một số VBDL của các nhà khoa học có uy tín cao cũng sử dụng hai từ này. Như vậy, tôi cho rằng nếu tác giả luận văn luận án sử dụng chúng trong văn bản khoa học của mình nhắm tới đối tượng độc giả đầu tiên là các thầy mình thì thật không phù hợp. Thay vào đó, họ có thể dùng tôi, hoặc chúng tôi. Tuy nhiên, tôi quy chiếu đến một cá nhân và chỉ một cá nhân. Về nguồn gốc, nó là một từ để xưng, thể hiện địa vị thấp, khiêm nhường của người nói. Trong tiếng Việt hiện đại, nó đã trở thành một đại từ ‘trung tính’ để chỉ ngôi thứ nhất số ít, gạt bỏ hoặc làm mờ đi các yếu tố về tuổi tác, địa vị, ngôi thứ. Nhưng tính cá nhân vẫn được thể hiện rõ ở đại từ này. Do vậy, điều thú vị là mặc dù tác giả văn bản có thể chỉ là cá nhân một người, nhưng quan sát của tôi cho thấy chúng tôi được dùng khá phổ biến. Có lẽ khi ‘số nhiều hoá’ như vậy, dường như cá nhân tác giả hoà mình vào một nhóm lớn hơn, ‘ẩn mình’ đi hơn nhằm giảm độ cam kết với nhận định mình đưa ra và tăng tính khách quan, tăng sự ủng hộ cho những nhận định đó cũng như tạo vẻ khiêm nhường hơn so với khi xưng ‘tôi’. Theo chúng tôi, đó là một chiến lược giao tiếp hiệu quả trong văn bản khoa học. 

Như đã nói ở đầu bài viết, văn bản khoa học tiếng Việt hiện đại chịu ảnh hưởng nhiều của văn bản khoa học châu Âu, trước hết phải kể đến tiếng Pháp. Trương Quang Đệ (2012: 27-28) đã có một quan sát khá thú vị đối với tiếng Pháp:

 

Ta quy ước như sau:

     Ngôi thứ nhất:  I

     Ngôi thứ hai:    II

     Ngôi thứ ba:     III

Chúng ta có những kết quả sau:

     I + II = I

     I + II + III = I

     II + III = II

     III + III = III

Như vậy, khi người nói (ngôi thứ nhất) bao gồm cả người nghe (ngôi thứ hai), hoặc cả người nghe và người được nói tới (ngôi thứ ba), đại từ nous sẽ phải được sử dụng. Hai trường hợp sau sẽ dẫn đến đại từ vous và ils/elles. Trương Quang Đệ cũng trích lời giải thích của Benveniste (1966) về hiện tượng này là sự vượt trội của JE khá mạnh mẽ, khiến người ta trong nhiều trường hợp coi NOUS chỉ đơn thuần là JE. Bởi lẽ NOUS không phải là bội của JE mà chính là một JE mở rộng, “bung ra” khỏi khuôn khổ thông thường…” Có thể việc dùng chúng tôi trong văn bản khoa học tiếng Việt hiện đại là sự chuyển di từ tiếng Pháp theo quan sát trên. Tuy nhiên, ngay trong đoạn trích trên, tác giả Trương Quang Đệ lại dùng ta, chúng ta theo ý nghĩa mà chúng tôi vừa trao đổi chứ không phải tôi hay chúng tôi. Trong bài viết này, chúng tôi cũng sử dụng từ chúng tôi thay cho tôi là vì lý do đó.  

Ngoài ra, một số tác giả luận văn luận án xưng là tác giả. Vốn dĩ từ này được dùng để chỉ ngôi thứ ba chứ không phải ngôi thứ nhất. Việc đẩy xa khoảng cách giữa người nói và phát ngôn của mình nhằm giảm độ cam kết và chắc chắn của phát ngôn bằng cách sử dụng ngôi thứ ba như vậy có lẽ cũng không phù hợp với văn bản khoa học. 

Một chiến lược hiệu quả thường được áp dụng trong văn bản khoa học tiếng Anh để tránh những khó khăn nêu trên trong việc sử dụng đại từ nhân xưng là sử dụng cấu trúc vô nhân xưng hoặc bị động. Đây là điều mà nhiều tác giả nghiên cứu và giảng dạy môn Viết khoa học luôn khuyến khích (Oshima & Hogue, 1998, 2006; Diamond & Fahey, 1997). Tiếng Việt cũng có những cách diễn đạt tương tự mà nhờ đó, tác giả có thể ‘giấu mình’. Hơn nữa, một yêu cầu thông thường của văn bản khoa học là phải ‘nói có sách, mách có chứng’, mọi nhận xét, kết luận, thậm chí cả suy luận, đều phải dựa trên bằng chứng (evidence-based); nếu không, chúng chỉ là những suy nghĩ chủ quan của cá nhân tác giả và thiếu tính thuyết phục. Văn bản trong (VD12) là một trong những văn bản còn có khiếm khuyết này. 

  1. Kết luận

Làm nghiên cứu khoa học đã vất vả, nhưng có kết quả rồi, trình bày kết quả đó ra sao để có một văn bản khoa học tốt cũng đòi hỏi trí tuệ, công sức và thời gian không kém. Khảo sát của chúng tôi cho thấy một số tác giả Việt Nam còn gặp khó khăn trong lựa chọn tiêu đề và trình bày tóm tắt, trích yếu cùng một số cách diễn đạt chưa phù hợp trong xưng hô. Với tiêu đề, đôi khi có thể làm ngược lại, tức là viết xong nội dung văn bản rồi mới đặt tiêu đề cho phù hợp, hoặc ít ra cũng phải điều chỉnh lại tiêu đề sau khi hoàn thành văn bản.  Với tóm tắt, trích yếu, cần phải coi đó là một văn bản riêng biệt so với văn bản mà nó tóm tắt, và phải đầu tư công sức thỏa đáng để trình bày sao cho đầy đủ những thông tin cần yếu một cách cô đọng, súc tích nhất. Cần xác định rõ đối tượng độc giả chủ yếu mà văn bản đó hướng tới là ai để có lựa chọn từ xưng hô cho hợp lý nhất mà vẫn đảm bảo tính khách quan, bình đẳng của văn bản khoa học. Tất nhiên, đó là những nguyên tắc cần thiết, nhưng chỉ học thuộc lòng những nguyên tắc đó cũng chưa đủ. Chúng phải được đưa ra áp dụng và rèn luyện thường xuyên mới trở thành kỹ năng thường trực của người viết. Người viết phải viết đi viết lại, chỉnh sửa qua nhiều bản thảo khác nhau mới có thể tạo ra được một văn bản tốt nhất. Đây sẽ là một trong những nội dung trọng tâm cần tích cực rèn luyện trong quá trình dạy-học môn Viết văn bản khoa học (hoặc Viết học thuật) bằng tiếng Việt đối với sinh viên, học viên cao học cũng như nghiên cứu sinh ở các đơn vị đào tạo.

 

Như chúng tôi đã trình bày, đây mới chỉ là khảo sát bước đầu về văn bản khoa học tiếng Việt, chủ yếu là trong ngành ngôn ngữ học và một số ngành khoa học xã hội và nhân văn. Chúng tôi sẽ tiếp tục khảo sát sâu hơn, với các văn bản đa dạng hơn và căn cứ theo những tiêu chí đầy đủ hơn nhằm có những đánh giá toàn diện và đề xuất giải pháp hiệu quả hơn để văn bản khoa học tiếng Việt theo kịp được chuẩn mực quốc tế, theo đúng tinh thần của hai công văn nói trên của Hội đồng Chức danh giáo sư nhà nước. 

 

Tài liệu tham khảo

Tiếng Việt

Diệp Quang Ban (2002). Giao tiếp – Văn bản – Mạch lạc – Liên kết – Đoạn văn. Hà Nội: NXB KHXH.

Diệp Quang Ban (2005). Văn bản và liên kết trong tiếng Việt. Hà Nội: NXB Giáo dục.

Trương Quang Đệ (2012). Vấn đề ngôi trong tiếng Việt. Tp Hồ Chí Minh: NXB Văn hoá – Văn nghệ.

Lâm Quang Đông (2010). Cần thiết rèn luyện kĩ năng thực hành tiếng cho sinh viên. Ngôn ngữ và Đời sống, 254 (10), 18-22.

Hữu Đạt (2010). Phong cách học tiếng Việt hiện đại, Hà Nội: NXB Giáo dục Việt Nam.

Hội đồng Chức danh giáo sư nhà nước (2016). Công văn số 37/ HĐCDGSNN ngày 04 tháng 4 năm 2016 về yêu cầu về chất lượng khoa học và thể thức đăng bài trong các tạp chí khoa học được tính điểm.

Hội đồng Chức danh giáo sư nhà nước (2017). Công văn số 30/HĐCDGSNN ngày 26 tháng 5 năm 2017 về nâng cao chất lượng của các tạp chí được tính điểm công trình khoa học quy đổi. 

Đinh Trọng Lạc (1994). Phong cách học văn bản. Hà Nội: NXB Giáo dục.

Đinh Trọng Lạc (1999). Phong cách học tiếng Việt. Hà Nội: NXB Giáo dục.

Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hoà (1993). Phong cách học tiếng Việt. Hà Nội: NXB Giáo dục.

Nguyễn Thị Minh Tâm, Ngô Hữu Hoàng (2017). Khảo sát tiềm năng cấu trúc thể loại của phần tóm tắt trong các bài báo khoa học tiếng Anh và tiếng Việt theo quan điểm chức năng hệ thống. Báo cáo gửi Hội thảo khoa học quốc gia Nghiên cứu và giảng dạy bản ngữ, ngoại ngữ và khu vực học trong thời kỳ hội nhập tại Trường Đại học Ngoại ngữ – Đại học Đà Nẵng ngày 28/7/2017.

Trần Ngọc Thêm (1999). Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt. Hà Nội: NXB Giáo dục.

 

Tiếng Anh

Diamond, Harriet and Marsha Fahey (1997). Executive Writing, A Style Manual for the Business World. New Jersey: Prentice Hall Regents

Olaniyan, K.K. (2014). An exploration of the generic structures of problem statements in research article abstracts. Research on Humanity and Social Sciences 15 (4), 70–80.

Oshima, Alice and Ann Hogue (1998). Writing Academic English, 3rd edition. New York: Addison Wesley Longman.

Oshima, Alice and Ann Hogue (2006). Writing Academic English, 4th edition. New York: Pearson Longman

 

Tiếng Pháp

Benveniste, É. (1966). De la subjectivité dans le langage. Problèmes de linguistique générale, 1. Paris: Gallimard. 

 

[1] Một số hội nghị hội thảo không có điều kiện công bố toàn văn mà chỉ đăng tóm tắt báo cáo, và bản thân những tóm tắt này, tương tự như tóm tắt luận án tiến sĩ, dù không dài nhưng cũng là một văn bản khoa học hoàn chỉnh, có cấu trúc và yêu cầu nội dung hoàn chỉnh, có thể đứng độc lập hoặc lồng ghép trong văn bản toàn văn.

[2] Dù sao các công bố chính thức đã được các tác giả chỉnh sửa sau nhiều ý kiến phản biện, góp ý khác nhau nên ít ‘vấn đề’ hơn so với bản thảo của chúng; do vậy, chúng tôi khảo sát cả bản thảo để có dữ liệu phong phú hơn.

--------------------------------     

  ĐT: 0913323447; email: volamthudong@gmail.com


Powered by Froala Editor