Viện phương đông

3 năm trước

KĨ NĂNG ĐỌC HIỂU, VIẾT NGHỊ LUẬN XÃ HỘI VÀ NGHỊ LUẬN VĂN HỌC TRONG BÀI THI PTTH

KĨ NĂNG ĐỌC HIỂU, VIẾT NGHỊ LUẬN XÃ HỘI VÀ NGHỊ LUẬN VĂN HỌC TRONG BÀI THI PTTH

Trần Hinh (*)

Phần 2

Powered by Froala Editor

II. KỸ NĂNG VIẾT BÀI VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI

1.   Thế nào là nghị luận và nghị luận xã hội?                           “Nghị luận là một thể loại văn học đặc biệt, dùng lý lẽ, phán đoán, chứng cứ để bàn luận về một vấn đề nào đó (chính trị, xã hội, văn học nghệ thuật, triết học, đạo đức, lối sống…). Vấn đề được nêu ra như một câu hỏi cần giải đáp, làm sáng tỏ. Luận là bàn về đúng, sai, phải, trái, khẳng định điều này, bác bỏ điều kia, để người ta nhận ra chân lý, đồng tình với mình, chia sẻ quan điểm và niềm tin của mình. Sức mạnh của văn nghị luận là ở sự sâu sắc của tư tưởng, tình cảm, tính mạch lạc, chặt chẽ của suy nghĩ và trình bày, sự thuyết phục của lập luận. Vận dụng các thao tác như giải thích, phân tích, chứng minh, bác bỏ, so sánh” (ngữ văn 11, tập 2, NXB Giáo Dục).  Ở dạng hẹp hơn, nghị luận được chia thành nghị luận văn học và nghị luận xã hội. Bài viết này chỉ tập trung vào dạng văn nghị luận xã hội. Trong cấu trúc đề thi, đây là câu hỏi 2 điểm, phần Làm văn, bắt buộc với tất cả thí sinh, thuộc dạng đề mở. Vậy nghị luận xã hội là gì?

Nghị luận xã hội (NLXH) là những bài văn bàn về xã hội, chính trị, đời sống. Do thuộc dạng đề mở nên đề tài của bài nghị luận xã hội khá đa dạng, phong phú. Nó gồm tất cả những vấn đề về tư tưởng, tình cảm, đạo đức, lối sống, quan điểm, thái độ của cá nhân trước các hiện tượng thiên nhiên và xã hội. Không chỉ thế, đề tài của NLXH còn bàn đến những vấn đề cụ thể, gần gũi hơnnhư vấn đề về hội nhập, môi trường,mối quan hệ giữa người với người trong,vấn đề tình yêu, lẽ sống, tính  trách nhiệm, tinh thần đấu trang chống cái xấu, cái ác, nhằm  xây dựng một xã hội tốt đẹp…, tức là tất cả những vấn đề liên quan đến cuộc sống con người. Rộng hơn nữa, đề tài của NLXH còn bàn đến tất cả các dạng văn bản viết khác về xã hội, chính trị, tôn giáo, văn chương, luật pháp…

2. Nhận diện nội dung và yêu cầu câu hỏi đề thi NLXH?

Để nhận diện tốt nhất câu hỏi đề thi NLXH, học sinh cần lưu ý 2 điểm quan trọng dưới đây:

Thứ nhất, nên coi đề thi minh họa về NLXH do Bộ GDĐT công bố trước mỗi kỳ thi chỉ như một vấn đề tham khảo. Các mẫu đề thi minh họa đó không phải là những mẫu hình bất di bất dịch. Trong thực tế, gần như tất các đề minh họa của Bộ những năm gần đây trước mỗi kỳ thi đều sử dụng ngữ liệu văn xuôi (loại văn nghị luận), trong khi theo dõi đề thi Phổ thông Trung học 3 năm qua (từ 2017 đến 2019), chỉ duy nhất 2017, văn bản được chọn là văn xuôi (bàn về “thấu cảm”), còn lại hai năm 2018, 2019, văn bản được chọn lại là thơ (năm 2018 là một đoạn trong trường ca dài Đánh thức tiềm lực (của Nguyễn Duy); năm 2019, là đoạn thơ trong bài Trước biển (của Vũ Quần Phương). Tóm lại, đề minh họa chỉ dùng để tham khảo. Học sinh tránh bị phụ thuộc vào đó.

 Thứ hai, trước đây, các đề thi NLXH thường độc lập hoàn toàn với với đề Đọc hiểu, nên ngữ liệu được chọn thường rất ngắn, chỉ bao gồm vài ba câu. Ví dụ: “Anh (chị) hãy trình bày suy nghĩ của mình về ý kiến: Kẻ cơ hội thì nôn nóng tạo ra thành tích, người chân chính thì kiên nhẫn tạo nên thành tựu (đoạn văn khoảng 600 chữ)”; hoặc: “Trình bày suy nghĩ về ý kiến (khoảng 600 chữ): Ngưỡng mộ thần tượng là một nét đẹp về văn hóa, nhưng mê muội thần tượng là một thảm họa”; hoặc nữa,“Có ý kiến cho rằng “Cống hiến hết mình, hưởng thụ tối đa” là phương châm sống tích cực của con người hiện đại, luôn phù hợp với mọi hoàn cảnh. Anh/chị có đồng ý với ý kiến trên không? Hãy viết một bài văn ngắn khoảng 600 chữ bày tỏ ý kiến của mình”. Những câu hỏi như thế thường rõ ràng, ý tập trung, rất thuận lợi cho người viết. Thêm nữa, đoạn văn viết được cho phép trong khoảng 600 chữ. Xét về dung lượng, bài viết có thể chiếm từ 1 đến 1,5 trang giấy thi. Với dạng câu hỏi mở, một dung lượng như thế là một lợi thế, học sinh có thể đủ “không gian” để mở rộng tầm suy nghĩ của mình. Trong trường hợp “tâm đắc”, học sinh thậm chí có thể viết dài quá 600 chữ. Nhưng nếu không ra ngoài đề, bài viết vẫn có thể được chấp nhận. Những năm gần đây, do thời lượng bài làm môn Văn bị rút ngắn hơn (chỉ còn 120 phút so với 180 phút như trước đây), đề thi chỉ yêu cầu bài viết ngắn gọn trong phạm vi 200 chữ (chỉ bằng 1/3 trướcđây), nên chắc chắn, việc cân đối, lựa chọn thời gian viết sao cho ngắn gọn, vừa đủ, thuyết phục được giám khảo, là yêu cầu tối thượng. Để đạt được yêu cầu đó, học sinh phải thực hiện các bước làm bài như thế nào?

3. Các bước cơ bản viết bài NLXH

Do ngữ liệu đề thi NLXH những năm gần đây đã thay đổi cơ bản, không còn là các câu hỏi trực tiếp thuộc dạng bài nghị luận về một tư tưởng, đạo lý như dựa theo câu ca từ trong một bản nhạc của Trịnh Công Sơn (Sống trên đời sống cần có một tấm lòng), hay viết bài nghị luận về một hiện tượng đời sống nổi bật có tác động đến nhiều người (về căn bệnh vô cảm, bệnh thành tích, sùng bái thần tượng, sự mất niềm tin, về thói quen sinh hoạt hàng ngày, về thái độ thi cử thiếu trung thực…), nên muốn thực hiện tốt nhất dạng bài viết này, trước tiên, học sinh phải nhận diện chính xác chủ đề, nội dung phần văn bản Đọc hiểu, yêu cầu của câu hỏi nghị luận. 

Bước thứ hai, sau khi đã nhận biết, phân tích kỹ lưỡng nội dung phần văn bản Đọc hiểu, yêu cầu của câu hỏi nghị luận, học sinh tiếp tục triển khai bài viết của mình qua phần thân đoạn. Để phần trình bày sáng rõ, ngắn gọn, thuyết phục được người đọc, bài viết nên có một bố cục rõ ràng. Một bài văn dù ngắn, chỉ trong 200 chữ, thì về nguyên tắc, nó vẫn nên được phân chia thành 3 phần (mở đầu, thân bài, kết luận). Phần mở bài đã được nói ở trên, sang phần thân bài (bàn luận), học sinh nên cố gắng bám sát vào nội dung câu hỏi và đoạn văn Đọc hiểu.Nên nhớ, yêu cầu chính của bài làm vẫn là phải tập trung trả lời câu hỏi của đề bài. Phần nội dung Đọc hiểu tuy không thuộc trọng tâm nhưng lại có vai trò quan trọng, giúp người viết đối chiếu, bổ sung phần trao đổi, bàn luận. Để học sinh theo dõi lĩnh hội dễ dàng, xin được dẫn dưới đây 2 đề thi NLXH trong kỳ thi 2017 và 2018: .

Ví dụ 1. 

Đề thị PTTH năm 2017, môn Ngữ văn (phần Đọc hiểu) 

[1] “Lòng trắc ẩn có nguồn gốc từ sư thấu cảm. Thấu cảm là khả năng nhìn thế giới bằng con mắt của người khác, đặt mình vào cuộc đời của họ. Giống như cái lạnh thấu tủy hay cái đau thấu xương, thấu cảm là sự thấu hiểu thấu đáo, trọn vẹn một ai đó, khiến ta hiểu được những suy nghĩ của họ, cảm được những cảm xúc của họ, và tất cả xảy ra mà không có sự phán xét. Khả năng đọc được tâm trí và tâm hồn của người khác là khả năng phát triển ở những người mẫn cảm. Thấu cảm khiến ta hồi hộp khi quan sát một người đang đi trên dây ở trên cao, làm chúng ta cùng vui buồn với một nhân vật ở trong truyện. 

[2] Thấu cảm xảy ra trong từng khoảnh khắc của cuộc sống. Một em bé 3 tuổi chìa con gấu bông của mình cho em gái sơ sinh đang khóc để dỗ nó. Một cô gái nhăn mặt khi theo dõi bạn mình trên giường bệnh chật vật uống một viên thuốc đắng. Mùa EURO 2016 kết thúc với một hình ảnh đẹp: một cậu bé Bồ Đào Nha tiến tới an ủi một fan người Pháp cao to gấp rưỡi mình đang ôm mặt khóc vì đội Pháp thua trong trận chung kết. Anh người Pháp cúi xuống ôm cậu bé mà người vẫn rung lên nức nở. Cậu đợi cho tới khi anh đi khuất hẳn rồi mới tiếp tục phất cờ mừng chiến thắng” (trích Thiện, Ác và smartphone, Đặng Hoàng Giang, NXB Hội Nhà Văn, 2017, tr.275).

Câu hỏi: Từ nội dung đoạn trích trong phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về ý nghĩa của sự thấu cảm trong cuộc sống.

Với nội dung văn bản và câu hỏi đề thi như trên, rõ ràng, việc trước tiên, trong bài viết, ở phần Mở đầu (I), học sinh phải nêu lại yêu cầu của đề: “trắc ẩn” và “thấu cảm” được coi là hai từ chìa khóa trong văn bản, đồng thời là nội dung chính của câu hỏi. Việc đầu tiên, để cho rõ ràng, học sinh phải giải thích cho rõ hơn khái niệm của hai từ khóa. Trong hai từ này, “trắc ẩn” có lẽ là từ thông dụng hơn, từng được sử dụng nhiều trong nói và viết. Nhiều người,trong đó có học sinh hiểu được dễ dàng khái niệm này: trắc ẩn là tình thương, sự cảm thông, thấu hiểu, sẻ chia giữa người với với người trong cuộc sống, gọi là trắc ẩn vì nó từ bên trong, ẩn kín, không lộ ra bên ngoài, nên không dễ nhận ra. Tuy nhiên, với từ thấu cảm, do lâu nay ít người sử dụng,lại ở thời điểm kỳ thi 2017, không ít học sinh rất khó giải thích. Tuy nhiên, như trên đã nói, trong trường hợp gặp khó khăn về bất cứ điều gì trong câu hỏi đề thi, học sinh nên đọc kỹ lại văn bản phần Đọc hiểu để được giải thích. Quả là, tại phân đoạn [1]) phần Đọc hiểu, chính văn bản đã giúp ta hiểu rõ hơn khái niệm nội dung của từ “thấu cảm”: “Lòng trắc ẩn có nguồn gốc từ sư thấu cảm. Thấu cảm là khả năng nhìn thế giới bằng con mắt của người khác, đặt mình vào cuộc đời của họ […], thấu cảm là sự thấu hiểu thấu đáo, trọn vẹn một ai đó, khiến ta hiểu được những suy nghĩ của họ, cảm được những cảm xúc của họ, và tất cả xảy ra mà không có sự phán xét. Khả năng đọc được tâm trí và tâm hồn của người khác là khả năng phát triển ở những người mẫn cảm…”.

 Sau khi đã giải thích từ khóa cũng như yêu cầu chính câu hỏi đề thi, Phần thân bài (II) mới bắt đầu đi sâu bàn luận nội dung chính yêu cầu của đề bài: ý nghĩa của sự thấu cảm trong cuộc sống. Đây là phần chính, phần quan trọng nhất mà học sinh phải thực hiện ở phần (II). Phần này có hai yêu cầu. Một là, người viết phải trình bày trực tiếp suy nghĩ cá nhân của mình về ý nghĩa của sự thấu cảm trong cuộc sống. Xin được nhấn mạnh, yêu cầu bắt buộc là ý nghĩa của sự thấu cảm trong cuộc sống, chứ không còn đơn giản chỉ là giải thích khái niệm từ “thấu cảm”. Trong phần bàn luận này, học sinh có thể dựa vào hiểu biết riêng của bản thân và cả sự vận dụng những kiến thức bên ngoài, trong cuộc sống, của người khác, kể cả phần nội dung câu hỏi Đọc hiểu

Hai là, bài viết phải có sự bàn luận mở rộng,chuyên sâu, để nội dụng được luận bàn thấu đáo, thuyết phục hơn. Ý nghĩa của sự thấu cảm phải được đào đi, xới lại. Thoạt tiên, nghe qua từ này, ai cũng có thể giải thích được, đó là sự hiểu biết, cảm thông sâu sắc nhất giữa người này với người khác, sự thâm nhập vào “bên trong” người khác. Vậy ý nghĩa của nó trong cuộc sống là gì? Trong khi giải thích và bình luận, học sinh hoàn toàn có thể bổ sung thêm những dẫn chứng minh họa được lấy ngay trong cuộc sống hàng ngày, càng “sốt dẻo” càng tốt. Chẳng hạn, trong đại dịch covid vừa qua, trên thế giới và ở Việt Nam, biết bao người đã rơi vào tình cảnh khó khăn, trớ trêu, khiến cũng rưng rưng xúc động. Một người mẹ, trước mỗi bữa ăn, nước mắt dàn dụa, vì mâm cơm hàng ngày của các con mình, quá đạm bạc, đơn sơ, do bà và chồng bị mất việc ở công ty; một người lao động ở nước ngoài bị kẹt lại trên sân bay, vì chuyến bay dự định, không được lệnh cất cánh,do dịch covid; một anh/ chị bác sĩ suốt hàng tháng trời, không có được chút thời gian cho riêng mình, không thể trở về nhà ăn bữa cơm chung với gia đình, những người thân. Rồi còn biết bao hành vi “nghĩa hiệp”khác: những người đã sẵn sàng đứng ra chia sẻ tình cảm, tiền bạc, công sức của mình cho cộng đồng chung. Họ đã thể hiện lòng “trắc ẩn”, và sự “thấu hiểu” một cách dung dị nhất. Sự thấu cảm rõ ràng không phải chỉ thuộc riêng thế giới những người khốn khó, thấp bé, mà còn cả ở những người đầy đủ, hạnh phúc. Thấu cảm rốt cục chính là sự sẻ chia cùng nhau. 

Cuối cùng phần kết luận (III) chỉ còn nhiệm vụ tổng kết và nêu những nhận thức, bài học cho cá nhân và cho xã hội, về lòng trắc ẩn và sự thấu cảm trong cuộc sống hàng ngày. Một bài văn NLXH, rõ ràng không khó, nếu học sinh nắm được đầy đủ các thao tác làm bài như phần hướng dẫn. 

Ví dụ 2. 

Đề thị PTTH năm 2017, môn Ngữ văn (phần Đọc hiểu) 

 Câu hỏi đề thi: “Hãy thức dậy, đất đai!/ để áo em tôi không còn vá vai/ cho phần gạo mỗi nhà không còn thay bằng ngô, khoai, sắn/ xin bắt đầu từ cơm no, áo ấm/ rồi thì đi xa hơn – đẹp, và giàu, và sung sướng hơn/ khoáng sản tiềm tàng trong ruột núi non/ châu báu vô biên dưới thềm lục địa/ rừng đại ngàn bạc vàng là thế/ phù sa muôn đời như sữa mẹ/ sông giàu đằng sông và bể giàu đằng bể/ còn mặt đất hôm nay thì em nghĩ thế nào? Lòng đất rất giàu, mặt đất cứ nghèo sao? ***/ Lúc này ta làm thơ cho nhau/ đưa đẩy mà chi mà chi mấy lời ngọt lạt/ ta ca hát quá nhiều về tiềm lực/ tiềm lực còn ngủ yên…(Tp Hồ Chí Minh 1980-1982 (Trích “Đánh thức tiềm lực”, Ánh trăng, Cát trắng, Mẹ và em, Nguyễn Duy, NXB HNV, 2015, tr. 289-290). Câu hỏi: Từ đoạn trích dẫn ở phần Đọc hiểu, anh/chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ về sứ mệnh đánh thức tiềm lực đất nước của mỗi cá nhân trong cuộc sống hiện nay.

Từ đề bài và câu hỏi trên đây, người viết trước tiên cần phải xác định đúng chủ đề,  nội dung đoạn văn bản cần nghị luận. Trước tiên, căn cứ vào nhan đề bài thơ Đánh thức tiềm lực, có thể khẳng định đoạn mở đầu dùng làm ngữ liệu, cũng đi theo hướng chủ đề này. Các từ khóa của câu hỏi cũng như đoạn thơ, như tiềm lực, đánh thức, giàu, nghèo, ngủ yên, rừng, sông, bể…, quan trọng nhất những từ được đặt ra trong câu hỏi (sứ mệnh, tiềm lực đất nước), trước tiên cần được giải thích rõ hơn trong phần mở bài (Sứ mệnh là nhiệm vụ quan trọng, thiêng liêng của mỗi con người; tiềm lực là những sức mạnh tiềm tàng vẫn còn ẩn khuất, cất giấu ở đâu đó, chưa được khám phá, khai thác).Từ định hướng đó, có thể làm rõ thêm một lần nữa về những nhiệm vụ phải thực hiện trong bài làm. Đó là xác định nội dung bàn luận: - Sứ mệnh đánh thức tiềm lực là nhiệm vụ quan trọng, cần thiết, tức thời của mỗi con người nhằm khơi dậy, phát huy, khai thác những tiềm năng còn giấu kín, chưa được phát lộ. Những tài nguyên của cá nhân con người là tâm hồn, trí tuệ, lòng yêu nước,ý chí khát vọng tinh thần, khát vọng; tài nguyên của đất nước, dân tộc là môi trường tự nhiên, văn hóa và xã hội,và chính các cá nhân con người sống trong xã hội đó..

Trong phần bàn luận về sứ mệnh đánh thức tiềm lực đất nước, học sinh phải trình bày quan điểm riêng của mình về nhiệm vụ, sứ mệnh đánh thức lực được nhắc đến trong đoạn thơ. Học sinh phải nêu được những suy nghĩ đúng đắn, chân thành, về cả những khó khăn và thuận lợi trong việc đánh thức tiềm lực. Đúng là tiềm năng của đất nước rất dồi dào: rừng, bể, những khoáng sản trong lòng đất, tôm cá trong lòng đại dương, “rừng vàng, biển bạc” của đất nước. Đó là thuận lợi. Nhưng bên cạnh thuận lợi vẫn không thiếu những khó khăn: thiên nhiên khắc nghiệt, khí hậu bất thường, bão lụt quanh năm, hạn hán, xâm nhập mặn, nạn cháy rừng, đất bạc màu… Nhưng những khó khăn trong việc phát huy tiềm năng của con người, còn lớn hơn. Đất nước ta quả có  lực lượng dân số đông đảo, lực lượng trẻ cũng nhiều. Đó là những con người thông minh, nghị lực, trí tuệ, yêu nước và giàu khát vọng. Nhưng không phải với ai, bất cứ người nào, những tiềm năng ấy cũng dễ dàng đánh thức, phát lộ. Ở đâu đó trong xã hội, ngay cả với lới lớp trẻ, vẫn còn những người lười biếng, bị động, chỉ nghĩ đến cái tôi, thậm chí còn phá phách, gây rối. Để khắc phục những hạn chế đó, rất cần đến sự nỗ lực, tự giác, hy sinh, đóng góp của mỗi người, nhất là những người trẻ. Trong phần mở rộng bàn luận, học sinh có thể đưa ra những dẫn chứng ngắn gọn cho bài viết có sức sống hơn. Và cuối cùng, ở phần kết luận, người viết phải rút ra những nhận thức, bài học đúng đắn cho bản thân và cho xã hội.

NLXH là một dạng đề mở. Nhưng do yêu cầu thời gian và dung lượng chủ đề, một bài viết mở không có nghĩa tự do muốn viết gì thì viết. Một bài văn NLXH hay chỉ có thể là một bài viết cô đúc, bám sát chủ đề, nêu được những suy nghĩ riêng độc đáo,có lý lẽ và chứng cứ thuyết phục. Và tất nhiên, không mắc lỗi chính tả và lỗi câu. 

Powered by Froala Editor