Viện phương đông

3 năm trước

Nhà giáo Ưu tú Lê Hồng Sâm

Cô dịu dàng như một người mẹ. Từ giọng nói đến nụ cười, tất thảy đều hiền dịu một cách lạ lùng... Mái tóc dài, chải lệch ngôi về một bên, cô Sâm đi từ bục giảng xuống cuối lớp, ân cần nói lên những điều tâm huyết nhất của mình về nền văn học của nước Pháp vĩ đại.

Powered by Froala Editor

Hồi thứ mười một

Đinh Gia Khánh một thời một thời nghiêng ngả mũ Đặng, Lê, Hoàng… ai đã lọt mắt xanh?

Nhà giáo Lê Hồng Sâm, Đặng Thị Hạnh

Một ấn tượng khó phôi pha.


I. Nhà giáo ưu tú Lê Hồng Sâm – một cô giáo tài năng

(Chân dung được viết trước khi cô Lê Hồng Sâm được phong tặng danh hiệu NGND)

 


          Thời tôi còn là sinh viên khoa Ngữ Văn, hai lớp Văn – Ngữ vẫn còn học chung mặc dù đã phân chia ngành ngay từ năm thứ nhất. Mãi tới năm cuối cấp, tức là từ năm thứ ba rưỡi về sau, hai lớp Văn Ngữ mới thực sự tách ra để học chuyên đề. Khoá chúng tôi cũng là một khoá đặc biêt - khoá duy nhất được đào tạo theo hệ 4 năm rưỡi của trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. So với các khoá khác, khoá 16 được học thêm nửa năm kiến thức cơ bản. Thành ra, tuy là sinh viên ngành ngữ, chúng tôi vẫn được học cô Sâm, cô Hạnh, cũng như một số thầy dạy văn học nước ngoài khác nhiều hơn so với các khoá thông thường. Những ấn tượng của tôi về các cô, sau bao nhiêu năm vẫn không hề phai nhạt. Không phải vì tôi nhớ dai mà nguyên nhân chính là các cô đã định hình phong cách rất sớm. Cùng dạy về văn học Pháp, hai cô lúc nào cũng như một đôi bạn tri kỷ, nhưng lại có hai phong cách khác nhau, và đều là những người thầy rất đáng kính của nhiều thế hệ học trò.

          Khi mới bước vào năm thứ nhất, tôi đã được nghe sinh viên các khoá trên truyền tụng về phong cách giảng dạy của cô Lê Hồng Sâm. Bởi vậy, ngay từ buổi học đầu tiên về văn học hiện thực Pháp, chúng tôi đã náo nức chờ đón cô. Dạo ấy, cô còn trẻ lắm. Mới ngoài ba mươi mà tiếng tăm của cô đã có ảnh hưởng sâu rộng tới nhiều khoá sinh viên khiến chúng tôi thấy mình trở nên rất nhỏ bé. Cô vào lớp, dịu dàng như một người mẹ. Từ giọng nói đến nụ cười, tất thảy đều hiền dịu một cách lạ lùng. Nghe cô giảng, bất giác tôi nhớ đến những bộ phim có các nhân vật là các thanh nữ của đất Hà thành. Mái tóc dài, chải lệch ngôi về một bên, cô Sâm đi từ bục giảng xuống cuối lớp, ân cần  nói lên những điều tâm huyết nhất của mình về nền văn học của nước Pháp vĩ đại. Cô đã làm choáng ngợp chúng tôi về một ông H. d. Balzăc khổng lồ. Ông là con người viết khoẻ nhất thế giới với hàng trăm bộ  sách về hiện thực sinh động của nước Pháp trong thế giới của chủ nghĩa tư bản.  Rồi chúng tôi lại há hốc mồm ngồi nghe cô giảng về Xtăngđan (Stendhal) với tác phẩm kinh điển “Đỏ và Đen”... Từ môi trường phổ thông, quen nghe một lối giảng cứng nhắc, khuôn vào những điều giáo lý của sách giáo khoa, nay chúng tôi được nghe một kiểu giảng mới của cô giáo ở bậc đại học. Sức hấp dẫn và lôi cuốn của bài giảng mà cô Sâm đem đến cho mỗi chúng tôi quả là một sức mạnh diệu kỳ. Nó đã chắp cánh cho tâm hồn chúng tôi bay bổng hẳn lên. Thật kỳ lạ, sau bài giảng của cô, tôi mơ thấy mình trở thành một nhà tiểu thuyết. Tôi vẫn nhớ như in, sau lần nghe cô giảng về Balzăc, đêm đêm hay nghĩ đến những biến cố lịch sử của gia đình mình trong những năm tháng thăng trầm của các cơn bão tố thời đại. Ông nội tôi, người đã cung cấp tiền bạc và vũ khí cho cuộc khởi nghĩa của ông Tán Thuật đã để lại trong tôi hình ảnh về một cuộc khởi nghĩa oai hùng. Tuy thất bại, nhưng tiếng vang của nó vẫn là một dư ba mạnh mẽ khiến tôi mê đắm vào con đường sáng tác với hy vọng phản ánh lại được phần nào những chiến tích của các bậc tiền nhân.

          Sau này, cuộc đời tôi phải gánh nặng hai vai: một nghiên cứu về ngôn ngữ, hai là sáng tác văn học, chính là do những ảnh hưởng sâu sắc của các vị giáo sư và các nhà giáo của ngành ngôn ngữ học và văn học trong khoa Ngữ Văn. Trong đó có những thầy cô như thầy Nguyễn Tài Cẩn, Nguyễn Hàm Dương, cô Lê Hồng Sâm, Đặng Thị Hạnh và nhiều thầy cô khác trong khoa. Đây cũng chính là những thầy cô đã tạo nên bước ngặt trong cuộc đời tôi qua các bài giảng hấp dẫn. Tôi không thể bỏ ngành ngôn ngữ học vì ngay từ đầu vào trường đại học tôi đã tình nguyện theo nó. Tôi cũng không thể từ bỏ con đường sáng tác văn chương vì ngay từ đầu tâm hồn tôi đã nhuộm thắm lòng yêu cái nghiệp “khốn khổ” này.

          Tôi không bao giờ quên được những bài giảng của cô Lê Hồng Sâm bởi lẽ ấy. Không phải cô chỉ chinh phục tôi bằng tâm huyết nghề nghiệp của mình mà bằng cả phong cách nhà giáo của cô. Thật khó tả hết những cảm giác mến phục của mình khi viết về cô giáo có một phong cách rất riêng này, tôi chỉ muốn nhấn mạnh với bạn đọc: những cô giáo có phong cách như cô Lê Hồng Sâm quả thực không nhiều. Từ thuở còn thơ cắp sách tới trường, tôi cũng đã học nhiều cô giáo, nhưng ấn tượng về cô vẫn là một ấn tượng sâu đậm nhất. Điều kỳ lạ là, nghe cô giảng về chủ nghĩa hiện thực, nhưng chất lãng mạn vẫn chờn vờn trong mỗi câu nói và giọng điệu của cô. Hiện thực mà vẫn bay bổng, đắng cay mà vẫn loé sáng niềm tin, chát chúa mà vẫn ngọt ngào, tàn nhẫn mà vẫn nhân văn...Đó là những cặp phạm trù tương phản mà luôn tác động qua lại biện chứng trong mỗi tiết giảng của cô khi cô phân tích về các nhân vật hay các nhà văn. Có được khả năng đó là vì cô rất giỏi tiếng Pháp. Nghe nói, cô là một người dịch tiếng Pháp rất sành điệu. Cô có thể dịch xuôi, dịch ngược hết sưc uyển chuyển, nhanh nhạy. Sự hiểu biết ngoại ngữ của cô không thuần tuý chỉ là nắm lấy nghĩa hay khả năng sử dụng của một số đơn vị từ ngữ mà còn nắm lấy cả linh hồn của thứ tiếng mình đang sử dụng. Đó là cả chiều sâu văn hoá của dân tộc Pháp được phản ánh trong mỗi tác phẩm, trong hệ thống từ ngữ của các nhà văn. Sự giao tiếp và hiểu sâu một nền văn học có tầm cỡ "khổng lồ" của thế giới văn minh đã tạo cho cô một thói quen ứng xử tinh tế trong cuộc sống và tạo cho cô một cốt cach riêng, rất riêng, so với những đồng khác. Cho nên, mỗi bài giảng của cô là một cánh cửa mở vào thế giới vô tận của những khám phá. Nó giúp cho sinh viên rất nhiều điều: cả cách tiếp nhận hình tượng văn học lẫn phương pháp tư duy. Vốn là một học sinh xuất sắc về tự nhiên mà chỉ giỏi về văn, tôi nhận thấy bài giảng của cô như có một linh hồn. Nó rủ bóng xuống nhiều số phận và cuộc đời và làm cho tôi có một cách nhìn hoàn toàn mới sau cái bước ngoặt bị bắt ép thi vào Tổng hợp Văn mà từ bỏ con đường mình yêu thích là vào khoa Chế tạo máy của Đại học Bách khoa Hà Nội.

          Với tôi, một sinh viên ngành Ngữ mà còn bị chính phục như thế thì các bạn tôi, chẳng hạn như anh Trần Hinh, đệ tử ruột của cô, còn bị chinh phục tới mức nào. Tôi còn nhớ như bây giờ cái sự thay đổi rất kỳ lạ ở con người Trần Hinh. Dạo ấy, vào năm thứ nhất khi chúng tôi mới từ các nơi lục tục về Mễ Trì. Mỗi buổi chiều khi ăn cơm về, ai cũng sửng sốt khi đứng dưới sân nhà D2  (trường Đại học Ngoại ngữ bây giờ) để nghe một giọng nói oang oang từ gác 4 vọng xuống. Giọng nói đó ầm ào như sóng biển, át hẳn giọng nói của những người khác. Đó chính là giọng nói Trần Hinh. Cứ theo tính cách ấy, con người ấy, ai chẳng nghĩ rằng "chàng trai của biển khơi" sẽ không bao giờ thay đổi được giọng nói, ngữ điệu của mình. Vậy mà, chỉ ít năm sau, khi trở thành "đệ tử ruột" của cô Lê Hồng Sâm và Đặng Thị Hạnh, Trần Hinh đã thành một con người khác hẳn. Mỗi khi nói chuyện, anh không oang oang cất cái giọng của sóng biển Đông để nã vào tai mọi người mà thủ thỉ như một cô con gái. Tôi chẳng bao giờ còn thấy anh nói to, ngay cả những lúc anh bực bõ nhất. Thế mới đủ biết, sức cảm hoá trong tính cách của hai cô giáo đối với Trần Hinh mạnh mẽ đến mức nào.

          Do không theo chuyên ngành văn học Pháp, những năm tháng sau này tôi ít tiếp xúc với cô Lê Hồng Sâm, nhưng trong tôi, ấn tượng của thuở ban đầu học cô và những ngày tháng còn sinh hoạt chung trong mái nhà Ngữ Văn mãi mãi là những ấn tượng đậm nét. Sự dịu dàng trong tính cách của cô, lối giảng bài luôn khơi gợi cho người học những suy nghĩ về cuộc đời, về nhân thế… mà cô đem đến từ những bài học thuở Mễ Trì thực sự đã chinh phục nhiều thế hệ sinh viên. Đối với tôi, cô vừa gần lại vừa xa. Xa vì sau khi trưởng thành, tôi ít khi được cùng đàm đạo với cô về chuyên môn. Tôi chỉ gặp và trò chuyện cùng cô trong những buổi sơ kết học kỳ hay tổng kết năm học. Nhưng gần vì thỉnh thoảng tôi vẫn được đọc các bài viết của cô trên báo, hay sách. Tuy chẳng mấy khi gặp cô, thế nhưng sau mấy chục năm cô chẳng những không hề quên tôi mà vẫn theo dõi từng bước đi của tôi nữa. Cảm động nhất là lần tôi gặp cô và cô Hạnh ở khách sạn Daewoo nhân tiệc cưới con một đồng nghiệp. Vừa gặp và chào cô xong thì tôi nhận được từ  hai cô lời hỏi thăm rất ân tình. Hai cô vẫn gọi tên tôi và xưng hô "cô và em" thân mật như thuở nào. Các cô còn hỏi   thăm sức khoẻ cháu nhỏ của tôi nữa…Lúc đó tôi  rất bất ngờ và cảm động. Vậy là hai cô tuy về hưu đã lâu mà chẳng hề quên các trò cũ. Trái lại, các cô còn nắm rất vững từng bước đi và sự thay đổi trong cuộc đời của tôi.

          Suốt cả bữa tiệc, tôi cứ nghĩ vẩn vơ về những năm tháng ấm cúng thuở Mễ Trì. Đó là cái thời đói nghèo, gian khổ, nhưng hình ảnh những người thầy đẹp và trong sáng như pha lê. Thấp thoáng sau cánh bằng lăng, tôi nhìn thấy cô Sâm, cô Hạnh vẫn trẻ đẹp trong nụ cười hồn hậu, rộng lượng và đầy chất nhân văn. Nụ cười ấy như bông hoa của hạnh phúc đem đến cho mỗi học trò, trong đó tôi chỉ là một trong những người được đi qua những năm tháng ấy. Bây giờ, các cô thực sự đã có tuổi rồi! Khuôn mặt các cô đã có nhiều nếp nhăn hơn, dáng đi cũng chậm chạp hơn… Giá như có phép màu làm cho thời gian ngược dòng trở lại, chắc chẳng riêng gì tôi mà rất nhiều người cũng muốn được trở về cái thời hoàng kim ấy. Các cô giống như người lái đò trên sông mênh mông, đưa bao thế hệ qua dòng nước chảy, tới bờ vinh quang, hạnh phúc. Các cô chính là những người thắp lên những ước vọng của tôi và đồng nghiệp. Mỗi lần nhớ tới các cô, nhớ tới Mễ Trì, tôi vẫn thấy bên mình thắp sáng bởi ánh sáng màu đỏ của hoa bằng lăng. Một lần lên rừng, tôi chợt cảm hứng mà viết về những kỷ niệm này:

Mỗi lần nở hoa bằng lăng
Biết một mùa thi đã đến
Mỗi lần cánh hoa rụng xuống
Biết một mùa thi đã qua
Bao nhiêu người thầy đã già
Bao nhiêu những người đang tới
Thân cây tháng ngày già cỗi
Chở theo ước vọng tháng năm
Đi xa nhớ hoa nhớ trường
Ký túc những ngày nắng đổ
Biết bao nhiêu là nỗi nhớ
Bồn chồn mỗi bước ai qua
Lên rừng nhặt lên cánh hoa
Ngỡ là như mình mới lớn
Ngoảnh sang em cười chúm chím
 Hoa bằng lăng nở, hay là…

          Thế hệ chúng tôi nay đã qua ngũ thập cả rồi. Chúng tôi đã đi qua những mùa thu trong suốt, náo nức tiếng ve trên những cây cao quanh ký túc Mễ trì. Các môn đệ ruột của cô Sâm, cô Hạnh lại còn nhiều cảm xúc dạt dào hơn nữa. Nhân đây, xin được trích một trong các trường đoạn cảm xúc của anh Trần Hinh về các cô. Vì trân trọng tác giả, tôi xin được chép nguyên si không dám thêm bớt bất cứ từ ngữ, hay dấu chấm, dấu phảy nào. Bài viết mà anh gửi cho tôi nguyên vẹn như sau:

           "Trong trí nhớ, quả thật không mấy tốt, của mình, tôi tuy không có những hồi ức tươi rói về hai nhà giáo, hai người thầy rất đáng kính của tôi, cô Đặng Thị Hạnh và Lê Hồng Sâm, nhưng nếu được phép lựa chọn một vài trong số gương mặt những người đi trước, có quyết định quan trọng trong đường đời của mình, hẳn tôi sẽ không bao giờ quên được hai cô giáo đáng kính đó. Tôi nhớ vào năm 1971, khi chỉ mới bước chân vào Tổng hợp Văn, tôi có cảm giác hai cô hãy còn rất trẻ. Hình như chỉ hơn 35, 36 gì đó. Lúc đó đang là sinh viên nên tôi rất ít có cơ hội được tường tận cả hai, nghĩa là, chỉ thỉnh thoảng nhìn thấy mặt thôi, chứ nói chuyện thì tuyệt nhiên không bao giờ có. Trong ký ức không liền mạch của mình, tôi nhớ cô Hạnh dạy Molière và Hugo chính xác, rõ ràng, khúc chiết nhưng không thực sự lôi cuốn và bay bổng. Ngược lại, cô Lê Hồng Sâm dạy Balzac, Stendhal lại hấp dẫn đến mê hồn. Trong cuộc đời  học trò của mình, tôi rất ít gặp được một nhà giáo nào lại có lối truyền đạt lôi cuốn và hấp dẫn đến như thế! Những lời lẽ, ngôn từ trong bài giảng của cô Sâm dường như không thừa và không thiếu chữ nào. Cứ như là những văn bản đã được gọt rũa, tu từ từ trước. Lối giảng lôi cuốn ấy cũng thể hiện ngay cả trong cách nói năng hàng ngày của cô, trong những chuyện trò với bất cứ một ai đó, từ người thân đến kẻ sơ, cô bao giờ cũng duyên dáng, dịu dàng như thế. Tôi nhớ có một đồng nghiệp trong Khoa Văn, hình như có vẻ không mấy ưa cô, nhưng cũng không thể tạo được bất kỳ lý do nào để ghét cô, có lần thấy tôi ca ngợi cô “quá mức”, đã thốt lên một lời trêu chọc thế này: “Dịu dàng quá, dịu dàng không chịu nổi”. Còn không ít học trò, vì quá mến mộ cô, chỉ nghe tiếng thôi chứ chưa hề được gặp mặt (vì cô đã nghỉ hưu từ tận năm 1990) đã đôi lần đề nghị tôi đưa đến nhà cô giới thiệu, chỉ gặp một lần thôi nhưng ai cũng đều bị thuyết phục bởi sự lịch lãm, dịu dàng, uyên bác hiếm có của người phụ nữ “sans marque” ấy (cô Lê Hồng Sâm cho đến tận lúc nghỉ hưu vẫn chỉ là một nhà giáo cử nhân mà không được phong bất cứ hàm vị nào).

            Cô Đặng Thị Hạnh thì lại khác. Cô đã kịp được phong phó giáo sư trước lúc nghỉ hưu. Trong lối nói, cách trò chuyện, giảng bài, người con gái yêu của cụ Đặng Thai Mai không hề có một chút kiểu cách. Trước mọi vấn đề và mọi đối tượng, cô nói bình dị, rõ ràng, không lấy lòng và có vẻ như cũng không nhằm tới sự thuyết phục: Ai muốn tin thì tin, giận hay yêu cũng không mấy quan trọng. Mục đích chính của cô chỉ là nhằm thoả mãn nhu cầu được nói thật suy nghĩ của mình. Trong nghiên cứu khoa học, cô viết ít và chỉ viết những gì mình thực sự hiểu biết tường tận. Đấy là một mẫu nhà nghiên cứu hiếm hoi trong thời đại hiện nay tự nghiêm khắc và trung thực với mình. Tôi nhớ, cách đây dăm năm, cô có phàn nàn với tôi về một việc mà hẳn với một người khác, họ sẽ chẳng coi đó là điều quan trọng mấy. Đó là tình cờ một lần cô nhận được lời mời phản biện kín cho một luận án Tiến sĩ về văn học Phương Tây. Đề tài luận án hình như là về Hêminguây gì đó. Cứ nghĩ đơn giản cô là một chuyên gia uyên bác về văn học Phương Tây hẳn sẽ chẳng gặp khó khăn gì, một vị có trách nhiệm ở Bộ Đại học không hỏi ý kiến cô từ trước mà cứ gửi thẳng giấy mời và luận án cho cô qua đường bưu điện. Khi nhận được ấn phẩm không hề mong đợi này, cô Hạnh lập tức gửi trả lại địa chỉ cũ với lời từ chối rất giản dị: do không có điều kiện đọc nhiều Hêminguây nên thật sự cảm thấy không thể thực hiện được trách nhiệm được giao phó. Khi nghe cô Hạnh kể lại câu chuyện này, tôi thật sự ngạc nhiên và kính phục trước một nhân cách khoa học nghiêm túc như thế. Ngạc nhiên vì có lần, ngay trong bộ môn của mình, tôi đã được nghe lời đọc nhận xét của một giáo sư văn học Trung Quốc về luận án Tiến sĩ E. Zola (văn học Pháp). Còn trong Khoa, trong Trường hay nhan nhản ở bất cứ đâu đó ngoài xã hội, có thiếu gì đâu những nhận xét khoa học của một chuyên gia lĩnh vực này nhưng lại về một lĩnh vực khác. Họ khen, họ chê cứ như họ am hiểu lắm những gì người ta đã viết về những điều họ chưa bao giờ đọc. Trong khi đó tôi tin rằng, cô Hạnh đọc và hiểu Hêminguây dễ dàng như bất cứ một nhà nghiên cứu văn học Việt Nam thông thái nào đọc hiểu Nam Cao…

          Cảm nhận không bao giờ có thể phai mờ trong tôi về hai cô giáo đáng kính của mình là như vậy. Tất nhiên tôi biết, đã là cảm nhận, thì ít hay nhiều đều cảm tính. Thế nhưng, tôi vẫn cứ luôn tin chắc rằng, những “cảm tính” của mình có độ chính xác không hề thấp. Bởi vì, trong hơn 30 năm hiện diện ở Khoa Ngữ văn, bây giờ là văn học, tôi có tới hơn 15 năm được làm việc bên cạnh cả hai cô Đặng Thị Hạnh và Lê Hồng Sâm, ở cùng một bộ môn, cùng họp hành, viết sách, dự hội thảo, tiếp khách nước ngoài, đến chơi nhà… Thậm chí, tôi có thể hiểu rõ thói quen, tính cách của từng người. Cô Hạnh chân thành, giản dị tới mức “xuề xoà” trong cuộc sống nhưng trong công việc thì vô cùng nghiêm khắc. Tôi nhớ hồi mới ra trường được phân công giảng dạy văn học Lào, do không thích nên tôi vô cùng chán nản. Trong một lần họp bộ môn, chính cô đã đề xuất cho tôi được chuyển sang làm văn học Pháp với cô. Chẳng cần phải phân tích, thảo luận gì nhiều, rằng tôi có một chút tư chất nào về văn học Pháp hay không? Thế là tôi đã có bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời chỉ nhờ qua một đề xuất hết đỗi giản dị như thế. Sự giản dị, chân thành còn chi phối đến từng thói quen nhỏ trong cuộc sống của người con gái yêu của học giả Đặng Thai Mai. Chúng tôi, những học trò được coi là rất đỗi thân thiết, nhưng vì một lý do nào đó, trong ngày lễ tết, không đến thăm cô, không bao giờ cô Hạnh coi đó là điều quan trọng. Thậm chí, có những năm vào dịp trước tết, tôi đến, cô còn nói: “thôi mà, các cậu có nhiều việc riêng tư, khi nào rỗi, đến chơi với cô lúc nào cũng được, đừng nên bận tâm đến việc này”. Năm đầu tiên, hồi mới ra trường, còn thời kỳ bao cấp, một lần trước tết đến chơi nhà cô, tôi còn được cô Hạnh tặng cả một chai rượu chanh (một thứ rất qúy hiếm) trong suất quà tết của đại tá Hồng Cư (bây giờ là trung tướng) về “biếu ông bà”. Trong câu chuyện sau này tôi mới hiểu, cô rất qúi mảnh đất Thanh Hoá, nơi mà cả gia đình cô từng sống một thời gian (Cụ Đặng Thai Mai từng có thời gian là Chủ tịch tỉnh Thanh Hóa. Còn chú Hồng Cư, chồng cô, là người quê Đông Sơn, đồng hương với nguyên tổng bí thư Lê Khả Phiêu). Tôi cũng là người Thanh Hóa….

          Cô Lê Hồng Sâm lại có một nét riêng. Gặp cô lần đầu, qua cách nói chuyện và qua ngoại hình, không ai không có nhận xét rằng, cô có nét qúy   phái  “con nhà dòng dõi”. Nói chuyện với cô thật khó ai có thể dứt nổi ra. Cô luôn biết cách thu hút và thuyết phục người đối thoại bằng những nhận xét thông thái và quyến rũ. Về điểm này, tôi cũng muốn có một so sánh hai người Thầy của tôi, cô Hạnh và cô Sâm. Tôi có cảm nhận, sự thông thái của cô Sâm bao giờ cũng có thể dễ dàng được bộc lộ ngay cả qua một cuộc trò chuyện nhỏ. Cô Sâm có thể dịch trau chuốt, chính xác từng từ ngữ tiếng Pháp một cách trực tiếp mà chẳng cần mất nhiều thời gian. Có lẽ vì thế những dịp có chuyên gia Pháp sang Việt Nam nói chuyện, cô Sâm bao giờ cũng lãnh phần phiên dịch. Cô Hạnh thì bộc lộ chân thành rằng, bản thân cô thật khó bì kịp với cô Sâm về khả năng này. Mặc dù, ai cũng biết, về sự thông thái sâu sắc về chuyên môn và tiếng Pháp, cô Hạnh thậm chí còn có nhiều công trình, bài viết sắc sảo hơn. Nhưng, nói chuyện và tiếp xúc với cô Hạnh, phải có thời gian thật lâu, ta mới hiểu, đó là một người thông thái. Trong cuộc sống và công việc, cô Sâm là một típ phụ nữ dynamique (năng động). Cô có khả năng hoạt động không mệt mỏi. Cô đã từng được Chính phủ Pháp tặng huân chương Cành cọ hàn lâm về thành tích có nhiều đóng góp cho việc quảng bá văn hoá Pháp. Cô chính là “nhạc trưởng” của nhiều công trình và hợp tác giữa Pháp và bộ môn văn học Phương Tây. Cô sẵn sàng giúp đỡ đến tận cùng những ai có niềm say mê văn chương Pháp, lĩnh vực chuyên môn mà hơn nửa thế kỷ qua cô từng theo đuổi… Tôi nhớ thời kỳ mới tập tễnh đến với văn học Pháp, vốn tiếng Pháp của tôi còn rất ngô nghê, nói chi đến khát vọng được đặt chân tới đất nước của Hugo, Balzac. Thế nhưng, chính cô Sâm là người đã truyền lửa cho thế hệ trẻ chúng tôi. Nhân một lần có chuyên gia Pháp từ trường Paris 7 sang làm việc, cô Sâm đã đạo diễn cho tôi vào tận Khách sạn Thắng Lợi, nơi vị chuyên gia ở, đọc một bài discours ra mắt rất ngộ nghĩnh. Tôi nói ngộ nghĩnh, vì lúc ấy, vốn tiếng Pháp của tôi chỉ vừa đủ trình độ phát âm. Cô Sâm không nản chí. Trước cuộc gặp kia, cô cho gọi tôi đến nhà mấy lần, viết sẵn bản discours ngắn gọn để tôi apprendre par cổur (học thuộc lòng) trước. Mặc dù rất cố gắng, buổi ra mắt, hình như tôi đã đọc bài discours đó một cách vụng về. Và ông thầy kia hình như cũng biết được điều đó. Nhưng đó lại là buổi ra mắt “đáng yêu” của tôi với văn chương Pháp. Về sau này, có dịp sang Pháp, gặp lại vị chuyên gia kia, một người Pháp đôn hậu mà tôi từng được gặp không nhiều lắm trong đời, thầy Jean Dupeb, tôi mới biết, nhờ buổi ra mắt đáng yêu đó mà ông nhất quyết bênh vực và bảo vệ đến cùng để tôi đến được với quê hương của Balzac, Hugo… Nghĩa là, cô Sâm cũng đã góp một phần quan trọng vào bước ngoặt cuộc đời tôi. Nếu không có chuyến đi Pháp năm đó, hẳn cuộc đời tôi sẽ khác. Cũng như trước đó, nếu không có sự đề xuất của cô Hạnh cho tôi chuyển sang làm văn học Pháp, có khi tôi đã đang lang thang ở một xó xỉnh nào..(?). Khác với cô Sâm. Cô Hạnh say mê, lặng lẽ với phần chuyên môn yêu thích của mình, nhưng lại “ngại” tiếp xúc, ngoại giao, xuất hiện, ngại làm “nhạc trưởng”. Về điểm này, tôi rất ngạc nhiên, vì từng có thời cô đã từng làm tới chức hiệu trưởng trường phổ thông trung học Hai Bà Trưng. Đó là thời kỳ đã lâu lắm. Còn bình thường, kể từ khi biết cô, tôi chưa thấy cô vui vẻ, tự nguyện làm “lãnh đạo” bao giờ. Ngay cả thời nhiều người còn thích bầu bán thi đua, tôi thấy, thường trong các cuộc bầu, cô Hạnh bao giờ cũng nhanh nhẩu nhận đứng ngoài danh sách lao động tiên tiến để đỡ phức tạp cho việc bầu bán của bộ môn (vì người ta quy định chỉ được bao nhiêu phần trăm thành viên đạt tiên tiến). Rất giống với giáo sư Đỗ Đức Hiểu cùng trong bộ môn văn học Phương Tây, cô Hạnh cũng ngại xuất hiện trước ống kính truyền hình. Tôi nhớ một vài lần tổ chức ghi hình trên vô tuyến, phải khó khăn lắm mới kéo được cô rời khỏi khu nhà Liễu Giai đến với trường quay đài Truyền hình Việt Nam, mà tôi biết chỉ cách nhà cô vài trăm thước.

          Hai phần ba thế kỷ qua đi, hai cô giáo của tôi đã bước qua tuổi “thất thập cổ lai hy”, khoa Ngữ Văn, Đại học Tổng hợp cũng gần tròn 50 tuổi, tôi vẫn thấy hai cô miệt mài làm việc. Cả hai đều không vì bất cứ một thứ lợi ích thực dụng nào để quảng bá cho một lĩnh vực chuyên môn mà hình như xã hội càng phát triển, nó lại càng bị người đời thờ ơ, lãnh đạm. Bất chấp tất cả, hai cô vẫn chung thủy và nhất quán với một tình yêu đã được đặt ra từ hơn nửa thế kỷ qua: tình yêu với văn chương đặc biệt là văn học Pháp. Có phải vì thế chăng mà tôi đặt bút ghi lại những dòng hồi ức này. Vừa viết và vừa luôn vẩn vơ nghĩ: Có lẽ đó là những típ người qúy hiếm mà càng ngày chúng ta sẽ càng khó có hy vọng tìm kiếm được trong xã hội này, khi mà tất cả đang miệt mài chạy đua trên con đường hiện đại hoá… nhưng chưa bao giờ tới lúc nào mình sẽ tới đích (?). Mùa xuân 2006 ".

          Tuy là một nhà giáo mẫu mực trong tính cách, viết hay, giảng dạy rất hấp dẫn, nhưng đến khi xét phong học hàm cô Lê Hồng Sâm lại không may. Không biết cô thiếu một tiêu chuẩn nào đó (nghe nói là thiếu cái bằng hệ 4 năm vì khoá cô học chỉ đào tạo 3 năm, hay do vấn đề nội bộ thời bấy giờ mà việc xét phong cô lại gặp khó khăn?). Cho đến lúc cô về hưu, cô vẫn không nhận được cái chức danh mà ai cũng nghĩ rằng cô đương nhiên phải nhận được là "phó giáo sư". Mới hay, sự đời thật lắm sự phũ phàng. Bình về sự nghiệp của cô nay có thơ rằng:

Dạy hay rõ thật là hay
Nghiệp… nào có chịu kém ai bao giờ
Mà sao đời sao lắm chữ ngờ
Lại vò cho rối cuộc cờ một phen
Bình sinh vốn chẳng ham danh
Chức không màng, chuyện đỏ đen coi thường
Ngu si phận lại đãi đằng
Thông minh phận lại nhùng nhằng thế ru?
Một đời vì những học trò
Một đời phận gái lái đò qua sông
Bao phen sóng gió bão bùng
Tâm hồn vẫn trắng trong lòng nước non
Trăng có khuyết nguyệt vẫn tròn
Giữa đời gương sáng mãi còn soi chung…
 


Powered by Froala Editor