Viện phương đông

3 năm trước

Thay đổi giá trị của con chữ không phụ thuộc vào ý chí cá nhân

Thay đổi giá trị của con chữ

không phụ thuộc vào ý chí cá nhân

Powered by Froala Editor

 Ngày 01/12/2017, phóng viên Mai Loan đã có bài phỏng vấn PGS.TS Nguyễn Hữu Đạt về sự kiện cải tiến chữ Quốc ngữ do PGS.TS Bùi Hiền đề xuất. Sau một thời gian, lại có một ý kiến đề xuất mới về vấn đề này. Đồng thời, gần đây, lại có nhiều bài viết phê phán gay gắt trên báo chí và các trang mạng xã hội về một số cuốn Từ điển đã phát hành trong chục năm trở lại đây.

Trong bối cảnh Việt Nam chưa có “Luật ngôn ngữ, nhiều người cảm thấy như khó tìm thấy tiếng nói chung? Không hẳn như vậy! Bởi, văn tự của mỗi ngôn ngữ giống như là “thứ bảo bối gia truyền” được trưng cất bởi một nền văn hóa. Nó được qui ước bởi cộng đồng ngôn ngữ mà không phụ thuộc vào ý chí của mỗi cá nhân. 

Để giúp bạn đọc có thêm góc nhìn tham chiếu về các vấn đề liên quan đến chữ viết, chính tả và chuẩn mực ngôn ngữ… Ban biên tập chúng tôi sẽ cho đăng một loạt bài thảo luận về các vấn đề liên quan đến khái niệm “chuẩn” trong tiếng Việt. Dưới đây là bài phỏng vấn của chúng tôi, phối kết hợp với bài của nhà báo Mai Loan.

 Bài phỏng vấn được nhà báo Mai Loan rút tít “Phải diệt trừ tận gốc” được đăng tải trên một số trang báo và các trang mạng trước đây chưa phản ánh đúng tinh thần trao đổi của PGS.TS Nguyễn Hữu Đạt, bởi theo ông, tít đề đó dễ tạo ra hiểu lầm về “tính áp đặt” một chiều của người viết. Trong khi đó, những vấn đề này cần đưa ra phân tích từ góc độ khoa học.

 Với lý do đó, qua gợi ý của PGS.TS Nguyễn Hữu Đạt, BBT đổi bài viết thành: “Thay đổi giá trị của con chữ không phụ thuộc vào ý chí cá nhân”.

 

*                 *

          *

 

PV: Thưa ông! Từ khi còn là chủ Chủ nhiệm Bộ môn Việt ngữ học, Đại học KH-XH&NV đến nay làm Viện trưởng Viện Ngôn ngữ và Văn hóa Phương Đông, vấn đề chữ Quốc ngữ và “Luật tiếng Việt” luôn là một vấn đề ông trăn trở?

NHĐ: Đúng vậy. Khi xã hội phát triển, mọi hành vi hoạt động của con người và xã hội cần có luật để điều chỉnh. Ngôn ngữ là công cụ giao tế quan trọng nhất của con người. Nó tham gia vào tất cả các hoạt động xã hội nên có một chế tài cho việc sử dụng nó là rất cần thiết. Nhưng điều đó không có nghĩa, không có Luật ngôn ngữ thì việc tranh cãi cuối cùng sẽ chẳng đâu đến đâu…

PV: PGS.TS Bùi Hiền từng nói “60 năm ông không bao giờ viết đúng được chính tả tiếng Việt”. Vì thế ông cho rằng, chữ Quốc ngữ là không có qui tắc và cần phải cải tiến.

NHĐ: Theo tôi, ông Bùi Hiền là PGS ngành Nga ngữ mà nói như vậy quả là điều vô cùng đáng tiếc. Trên thực tế, có nhiều học sinh mới học cấp 2 (trung học cơ sở) nhưng  suốt cả năm học không hề mắc lỗi chính tả nào. Ví dụ, tôi biết, có nhiều học sinh lớp A0 Trường Phổ thông Trung học Cơ sở Nguyễn Trường Tộ (Hà Nội) viết văn rất hay và không hề mắc lỗi chính tả. Trường hợp, 60 năm không viết đúng được chính tả có lẽ là quá hiếm, ít nhất là trong giới trí thức liên quan tới nghiên cứu giảng dạy tiếng Việt và ngoại ngữ. 

PV: Đây là một nguyên nhân tạo ra động lực cho PGS.TS Bùi Hiền bỏ công cải tiến chữ Quốc ngữ. Ít nhất là từ trải nghiệm thực tế của chính PGS.TS Bùi Hiền.

NHĐ: Trải nghiệm của một cá nhân, không thể là trải nghiệm của một cộng đồng.

PV: Nhưng từ trải nghiệm đó mà PGS.TS Bùi Hiền coi chữa Quốc ngữ là không có qui tắc và tùy tiện.

  NHĐ: Nói như vậy không đúng. Chữ Quốc ngữ có qui tắc chứ. Vấn đề là, ta có nắm được qui tắc một cách sâu sắc hay không. Ví dụ, PGS Bùi Hiền cho rằng, cùng là âm [ng] mà khi thì viết là [ng], khi lại viết là [ngh] là vô lý. Nói vậy là chỉ thấy cái bên ngoài. Còn cái có lí bên trong thì lại khác.

PV: Nó là như thế nào ? Ông có thể cho biết được không?

NHĐ: Cái có lý là ở chỗ: hai chữ này dùng để khu biệt. Ví dụ, nếu nó đi với các nguyên âm dòng trước thì viết là [ngh] (nghi, nghê, nghe) nếu nó đi với các nguyên âm còn lại ( u, ô, o, ư, a, ă, â… thì viết là [ng]. Qui tắc như thế là rất rõ, sao lại nói là vô lý? 


PGS.TS Nguyễn Hữu Đạt (bên phải) - Viện trưởng Viện Ngôn ngữ và Văn hóa Phương Đông và GS.TS Đào Xuân Học (nguyên Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp) - Ủy viên Hội đồng khoa học viện Ngôn ngữ và Văn hóa Phương Đông. (Ảnh: Minh Châu)

 

Chữ viết là văn hóa, là quốc hồn của dân tộc

PV: - Đề xuất cải cách chữ viết tiếng Việt của PGS.TS Bùi Hiền đang nhận được sự quan tâm lớn của dư luận, gây ra nhiều tranh cãi trái chiều. Ông đánh giá như thế nào về đề xuất này?

NHĐ: Theo tôi, phương án anh Hiền đề xuất thực ra không phải là cái gì cao siêu, mới mẻ. Trước đây đã có nhiều người nghĩ tới phương án này nhưng không thành. Cách anh Hiền làm là muốn giản tiện cách viết từ ngữ. Nó khá giống ngôn ngữ “chat chit” – một thứ tiếng lóng của giới trẻ, nhưng có nhiều chỗ lại cồng kềnh hơn rất nhiều.

PV: Theo PGS.TS Bùi Hiền thì nếu thực hiện cải cách sẽ giản tiện được bộ chữ cái, khiến cho mọi người tiết kiệm được thì giờ, công sức, vật tư trong quá trình tạo lập văn bản trên giấy, trên máy tính. Như vậy sự giản tiện mà ông vừa nói tới có phải là một ưu điểm không?

NHĐ: Anh Hiền nghĩ rất đơn giản. Có lẽ anh không suy nghĩ sâu đến bản chất của ngôn ngữ. Anh coi chữ viết chỉ là ký tự thuần túy. Và khi anh muốn giản tiện nó mà không nghĩ một vấn đề khác của khoa học là, khi anh viết như vậy thì sẽ đẩy số lượng từ đồng âm lên rất lớn và làm cồng kềnh bộ nhớ rất nhiều.

Ví dụ, anh đề xuất chữ Ch, Tr đều viết là C: quả chanh, bức tranh đều viết thành [can’] (vì chưa có gì thay thế cho nh). Vậy khi dạy từ “can” thì trẻ em hay người nước ngoài học tiếng Việt sẽ rất khó nhớ và khó thuộc vì hai từ vốn khác nhau này lại thành ra hai từ đồng âm và dấu phụ (’) người học dễ lầm thành dấu sắc. Chưa kể, từ “chanh” và “tranh” vốn là hai từ khác nhau (từ “chanh” chỉ thực vật, từ “tranh” chỉ sự vật) nay cải tiến, lại liên quan đến một từ nữa là động từ (chúng nó tranh ăn). Ta sẽ thấy có các dạng tự vô cùng rắc rối:

  • Họ vẽ  can’

  • Họ ăn can’

  • Họ can’ ăn

  • Họ can an’  (Họ can anh)

Như vậy, cải tiến theo kiểu này tưởng như giản tiện về cách viết nhưng lại quá phức tạp cho bộ nhớ và gây ra nhiều phiền toái trong sử dụng.

PV: Có vẻ như PGS.TS Bùi Hiền chưa hiểu tính quy luật và bản chất của ngôn ngữ?

HĐ: Đúng vậy. Không chỉ riêng chữ Quốc ngữ mà chữ viết của dân tộc nào cũng có những bất hợp lý không thể khắc phục. Việc đưa ra đề xuất như anh Hiền là một suy nghĩ thiếu chín chắn.

PV: Trước đây, một số nhà nghiên cứu sốt sắng đưa ra loại văn tự gọi là “Quốc tế ngữ” làm văn tự chung cho các quốc gia đã bị thất bại. Ông có thể nói về nguyên nhân của sự thất bại này?

HĐ: Vì người ta chủ quan, lấy ý chí cá nhân (và một số cá nhân) áp đặt lên các qui luật của ngôn ngữ. Thực ra, ký tự thuần túy chỉ là thứ vô hồn. Học “Quốc tế ngữ” người ta sẽ không thấy văn hóa riêng của nước Pháp, không thấy văn hóa riêng của nước Anh, của nước Mỹ… Và nếu để giản tiện nhất thì chỉ cần học tốc ký, vẫn có đủ các ký hiệu để biểu đạt. Nhưng vì sao ta lại không thể thay chữ Quốc ngữ bằng tốc ký? Là vì chữ viết không chỉ là ký tự đơn thuần. Văn tự với tư cách là một phương diện biểu hiện của ngôn ngữ, nó luôn gắn bó với văn hóa, tâm hồn dân tộc, mà thậm chí nó còn là tâm hồn, văn hóa của dân tộc. Tính từ thời điểm chữ Quốc ngữ ra đời, có biết bao tác phẩm nghệ thuật, bao chữ nghĩa ở các đền đài, văn bia… được ghi, dịch lại bằng chữ Quốc ngữ. Thứ chữ ấy đã thấm đẫm ý thức tâm linh, văn hóa dân tộc.


Quốc ngữ in lối mới - báo Bình Minh (Ảnh: L.M.Q)


Nổi tiếng kiểu “kẻ đốt đền”

PV: Theo chia sẻ của PGS.TS Bùi Hiền, thì đề xuất chính là tâm huyết và ông mất nhiều năm để nghiên cứu. Đứng ở góc độ một nhà khoa học, điều đó cũng đáng trân trọng, thưa ông?

NHĐ: Nghiên cứu khoa học là công việc rất đáng trân trọng. Nhưng với việc đề xuất cải tiến chữ Quốc ngữ của PGS.TS Bùi Hiền, tôi lại thấy thật đáng tiếc! Bởi, lẽ ra, với ngần ấy năm, anh Hiền nghiên cứu một đề tài khác, có thể sẽ có ích và có kết quả thiết thực hơn. Đây là hiện tượng không hiếm trong khoa học. Đôi khi mình lạc hậu với tình hình nhưng lại nghĩ mình là người có tinh thần cải cách và phát minh “cái mới”. Tôi nghĩ rằng, có sự kiện này có thể do anh Hiền xuất thân từ một nhà Nga ngữ, chứ không phải là nhà ngôn ngữ thực thụ, cho nên tri thức về ngôn ngữ học của anh cũng có hạn. Anh cứ nghĩ đó là một phát minh. Nhưng đối với những người trong ngành như chúng tôi thì nó là quá cũ. Chẳng hạn, cho đến nay anh Hiền vẫn quan niệm, chữ Quốc ngữ là chữ tượng hình; trong khi đó, giới khoa học đã khẳng định chữ Quốc ngữ là chữ ghi âm từ rất lâu rồi mà anh không hề cập nhật. Quan niệm này cũng đã được đưa vào giảng dạy chính thức ở nhà trường từ nhiều năm nay.

PV: Nhưng theo tôi, mọi người đều có quyền nghiên cứu, đề xuất chứ? Ông có nhận xét gì về cách phản ứng của dư luận đối với PGS.TS Bùi Hiền?

NHĐ: Dư luận đã dùng những lời lẽ vô cùng nặng nề đối với anh Hiền, điều này theo tôi sẽ không chỉ gây tổn thương cho anh Hiền mà còn cả với người thân của anh ấy, khi họ đọc được hẳn cũng rất buồn. Tôi không đồng tình với cách ứng xử đó. Vì việc nghiên cứu rồi đưa ra kết quả nghiên cứu, đề xuất là quyền của mỗi người. Kết luận đúng sai cần dựa trên tinh thần khoa học, căn cứ khoa học chứ không thể dựa vào xúc cảm bột phát. Nếu mình có tranh luận, phê phán thì đứng trên lý lẽ, lập luận khoa học. Đâu nhất thiết phải chửi bới hay giễu cợt? Nhất là, ông cũng đã ở bậc “chưởng lão”.

PV: PGS.TS Bùi Hiền không phải là người đầu tiên đưa ra cải cách chữ Quốc ngữ. Nhưng theo ông, vì sao dư luận lại có phản ứng dữ dội như vậy với PGS.TS Bùi Hiền?

NHĐ: Là vì anh Hiền đã đưa ra một thứ đề xuất làm rắc rối cho cả xã hội. Theo đề xuất của PGS Bùi Hiền thì “nhoàng” một cái, bỗng dưng cả dân tộc ta trở thành mù chữ. Giả sử đề xuất được áp dụng thì tất cả những người biết đọc biết viết phải học lại từ đầu. Chưa kể trong gần 400 năm qua, biết bao tác phẩm nghệ thuật phải đem ra dịch lại. Sẽ tiêu tốn bao nhiêu tiền của, công sức của xã hội! Đặc biệt, trong một khía cạnh khác, đề xuất của anh Hiền đã phần nào làm tổn thương đến văn hóa dân tộc, động chạm đến phần thiêng liêng sâu thẳm trong tâm linh của người dân, thậm chí cả tới người đã khuất. Vì ngôn ngữ là văn hóa, là linh hồn đất nước. Đây là điều khiến cho nhiều người mất bình tĩnh. Người ta sợ rằng, học cái thứ chữ đó sẽ làm mất đi một truyền thống rất tốt đẹp. Anh Bùi Hiền đã khiến người ta buộc phải thốt ra những lời phê phán nặng nề (thậm chí cả những lời giễu cợt và đả kích) để “chặn đứng” cái nguy cơ khiến người ta đang rất sợ đó.

PV: Liệu cách ứng xử đó sẽ khiến chúng ta khó tiếp cận được những thứ đổi mới, sáng tạo hay không?

NHĐ: Theo tôi cần phải phân biệt giữa cái khác lạ và đổi mới. Trong suy nghĩ của PGS Bùi Hiền thì đó là đổi mới, nhưng tôi cho rằng, thực ra, ông mới cố gắng tạo ra cái khác lạ thôi. Việc làm đó chẳng khác gì sự nổi tiếng của “kẻ đốt đền”, “không thành công thì cũng thành nhân”. Tiếp theo cách làm đó, gần đây lại xuất hiện một người trẻ tuổi khác lao vào việc này và quyết tâm đăng ký quyền sở hữu trí tuệ.


Tiếng Việt phong phú và tinh tế 

PV: Được biết, chữ Quốc ngữ đã trải qua rất nhiều lần được đề xuất, thực hiện cải cách nhưng đều thất bại. Lý do là gì, thưa ông?

NHĐ: Tôi cho rằng những người làm ra chữ Quốc ngữ đã tính toán rất kỹ và nó được thử thách qua khoảng lịch sử khá dài – gần 400 năm, tính từ khi cuốn từ điển của Alexandre de Rhodes ra đời. Có những quy tắc không phải là ngẫu nhiên, mà có dụng ý cả. Ví dụ, cách viết i, y. Sao lại viết là con đĩ? Tên người thì lại thường viết y (My, Sỹ, Vỹ…). Là vì y có đường nét dài, đẹp hơn (đó là giá trị hội họa và thẩm mỹ của mỗi con chữ). Đây chính là sự tinh tế trong cách viết… Cách đây vài chục năm, Bộ Giáo dục đã từng tiến hành cải tiến trong việc dạy chữ Quốc ngữ bằng cách viết l, m, m theo cách sổ thẳng, không có nét uốn lượn và đã thất bại. Bởi chữ Quốc ngữ, ngoài giá trị biểu vật, biểu niệm… còn có tính hội họa, thẩm mỹ…Các cuộc cải cách thất bại chứng tỏ một điều: Ngôn ngữ là vấn đề của một cộng đồng, cái gì thuận tiện, hợp lý thì cộng đồng sẽ chấp nhận.

PV: Là Viện trưởng Viện Ngôn ngữ và Văn hóa Phương Đông, đồng thời cũng là một nhà ngôn ngữ học, một nhà văn, nhà thơ, ông có nhận xét gì về tiếng Việt của chúng ta?

NHĐ: Tôi có đi dạy nhiều, cả trong nước và ở nước ngoài. Sinh viên nước ngoài nhận xét tiếng Việt rất độc đáo. Qua quá trình trải nghiệm sử dụng tiếng Việt trong nghiên cứu cũng như sáng tác, bản thân tôi thấy rằng, tiếng Việt rất phong phú và tinh tế. Ngôn ngữ của chúng ta có những ưu điểm mà tiếng nước ngoài không có được.

Theo tôi, cho đến nay, tiếng Việt vẫn đủ khả năng để dịch các loại từ ngữ khác nhau từ tiếng nước ngoài. Việc vay mượn hay phiên dịch từ ngữ nước ngoài (nhất là các thuật ngữ khoa học) cũng là quy luật phổ biến của tất cả các ngôn ngữ trên thế giới.

PV: Theo ông, tiếng Việt hiện có cần cải cách gì thêm không?

NHĐ: Tôi cho rằng, chữ viết hiện nay, về cơ bản đã đáp ứng được các nhu cầu sử dụng, không cần cải cách gì thêm, nếu có chỉ cần bổ sung một vài ký tự để việc dịch thuật được thuận lợi hơn. Vốn từ của một ngôn ngữ thường luôn thay đổi, phát triển, còn chữ viết thì có tính bền vững cao. Nếu cứ chạy theo phát âm (biến đổi ngữ âm) mà thay đổi chữ viết thì sẽ tạo ra sự bất ổn. Không có dân tộc nào làm như thế cả.

PV: Trân trọng cảm ơn ông!

 

Trong bài viết “Chữ Quốc ngữ và hội nhập quốc tế” PGS.TS Bùi Hiền (nguyên Hiệu phó trường ĐHSP Ngoại ngữ Hà Nội, nguyên Phó Viện trưởng Viện Nội dung & Phương pháp dạy – học phổ thông) đã đề xuất cải tiến chữ viết tiếng Việt. Theo đó, sẽ thay đổi giá trị âm vị của 11 chữ cái hiện có, cụ thể: C = Ch, Tr; D = Đ; G = G, Gh; F = Ph; K = C, Q, K; Q = Ng, Ngh; R = R; S = S; X = Kh; W =Th; Z = d, gi, r. Vì âm “nhờ” (nh) chưa có kí tự mới thay thế, nên trong văn bản trên tạm thời dùng ký tự ghép n’ để biểu đạt. Theo đề xuất, “Luật giáo dục” phải viết là “luật záo zụk”, “nhà nước” là “n’à nướk”, “ngôn ngữ” là “qôn qữ”.

 

 

Powered by Froala Editor